Giang lịch năm thứ 3 vạn 9.516 (Giáp Ngọ, 1414),mùa hạ tháng 6. Thăng Long.
Hoàng Cung của Đại Việt xưa, nay là Đại tướng quân phủ, các tướng Minh triều như Trương Phụ, Mộc Thạnh, Phương Chính, Vương Hữu, … hội họp bàn bạc tìm cách vượt qua cảnh nguy khốn trước mắt. Từ khi Thăng Long bị vây, tình hình nguy cấp, những cuộc hội họp như thế này diễn ra hàng ngày ở đây. Nhưng thực lực song phương quá chênh lệch, bọn họ vẫn không tìm ra được cách gì để cứu vãn tình thế nguy ngập hiện tại, chỉ còn biết đặt hy vọng vào các đạo viện quân từ Vân Nam và Lưỡng Quảng sắp sang.
Hôm nay, thần sắc Trương Phụ cực kỳ không tốt. Chư tướng đều đoán rằng đã có đại sự phát sinh. Phương Chính ngạc nhiên hỏi :
Mộc Thạnh lắc đầu nói :
Đông Quan chính là tên gọi thời này của Thăng Long, do bọn Hồ Quý Ly đặt sau khi dời kinh đô về Tây Đô (Thanh Hóa). Nghe nhắc đến viện binh, Trương Phụ lại thở dài. Mộc Thạnh kinh hãi hỏi :
Trương Phụ lại thở dài, nói :
Phương Chính cả kinh, đứng bật dậy nói :
Trương Phụ thần sắc trầm trọng, nhìn khắp chư tướng một lượt, nói :
Chư tướng thấy Trương Phụ thần sắc trầm trọng, biết là sự việc nghiêm trọng, đều chú tâm lắng nghe, đồng thời suy đoán xem chuyện gì. Trương Phụ nói :
Nói đoạn, Trương Phụ lấy tờ hịch văn mà Lý Tử Tấn soạn, truyền sang đất Minh triều đưa cho chư tướng xem. Mọi người lần lượt xem qua, ai nấy đều vừa kinh vừa nộ. Phương Chính vỗ bàn nói :
Vương Hữu nói :
Chúng tướng đồng thanh khen phải. Chỉ có Mộc Thạnh là vẫn nhíu mày suy nghĩ. Vương Hữu hỏi :
Mộc Thạnh là con thứ của Kiềm Ninh Vương Mộc Anh, kế nghiệp anh là Mộc Xuân, trấn thủ đất Vân Nam vào năm 1398. Sau khi đánh bại nhà Hồ, chiếm lĩnh Đại Việt, Mộc Thạnh đã được Vĩnh Lạc đế phong làm Kiềm quốc công vào năm 1408 (tước quốc công chỉ thấp hơn tước vương). Trong thời Minh, con cháu nhà họ Mộc đời đời trấn thủ Vân Nam, phụ trách phòng ngự sự tấn công của quân Miến Điện.
Nghe hỏi, Mộc Thạnh lắc lắc đầu, xua tan những ý nghĩ không có đáp án, quay sang hỏi Trương Phụ :
Trương Phụ gật đầu nói :
Phương Chính chép miệng nói :
Trương Phụ trầm trọng nói :
Phương Chính nói :
Trong khi đó, Mộc Thạnh lại giật mình hỏi :
Trương Phụ gật đầu nói :
Chúng tướng cả kinh, sửng sốt, thất thần. Hồi lâu, Mộc Thạnh mới hỏi :
Trương Phụ nói :
Chư tướng nghe nói vậy, tâm tình bất giác trở nên trầm trọng. Không ai nói gì nữa, ngồi yên chờ nghe Trương Phụ nói. Trương Phụ khẽ than một tiếng, nói :
Tình hình còn nghiêm trọng hơn chư tướng tưởng tượng. Mọi người thất thần, đầu não hỗn loạn. Chỉ có Mộc Thạnh là còn trấn tỉnh, hỏi :
Trương Phụ khẽ lắc đầu, nói :
Mộc Thạnh nói :
Trương Phụ gật đầu nói :
Thế là cả bọn bàn bạc việc rút khỏi Thăng Long, chạy về giữ Quảng Tây. Trong thành quân Minh chỉ còn gần 2 vạn, để có đủ binh lực giữ Quảng Tây, không thể để tổn thất thêm nữa.
Mấy hôm sau, vào buổi tối, quân Minh bất ngờ mở cửa đông, bỏ thành rút chạy. Bọn họ không đi bằng cửa bắc bởi nơi đó Phạm Thế Căng có đặt trọng binh trấn giữ. Bọn họ cũng không chạy về hướng Bạch Hạc là đường quân Minh kéo sang đánh nhà Hồ khi trước, mà lại chạy về phía đông bắc, theo hướng Vạn Kiếp, rồi từ đó rút về Quảng Tây qua đường Lạng Sơn, đến châu Tư Minh. Trương Phụ khi trước sang đây bằng đường Bạch Hạc, nay không dám về bằng đường cũ, sợ bị phục kích.
Gần 2 vạn quân Minh, vì đào mạng mà chạy đi rất nhanh và lặng lẽ. Không ai dám phát ra tiếng động mạnh, sợ bị đối phương phát hiện. Sự việc có liên quan đến tính mạng, quân Minh bộc phát năng lực mà ngày thường không thể nào có được. Trương Phụ dẫn quân an toàn chạy đến bến Vạn Kiếp, mọi người thở phào nhẹ nhòm. Quân Minh một số lo nấu cơm ăn, một số khác lo kết bè để sang sông. Cả bọn tạm nghỉ ngơi giây lát trước khi tiếp tục cuộc bôn đào.
Cơm nấu xong, quân Minh đang tụ tập lại chuẩn bị ăn cơm, đột nhiên từ xa có tiếng pháo nổ vang trời, rồi có tiếng quân hò reo vang dội. Liền đó là một trận pháo kích dội xuống đầu quân Minh, tạo ra tổn thất thảm trọng. Quân Minh không còn lòng dạ nào ở lại đấy nữa, quăng bỏ chén cơm, tìm đường tháo chạy. Từ phía đông nam có đến mấy vạn quân đang rung cờ đánh trống rầm rộ tiến vào, đao thương kiếm kích sáng ngời, tiếng quân reo dậy đất. Quân Minh đã biết đối phương lợi hại rồi, đương nhiên không dám chạy ra hướng đó, đành kéo nhau xuống bè bơi sang bờ bên kia. Một số khác không lên được bè, đành ôm khúc gỗ bơi sang, vũ khí khôi giáp quăng bỏ cả. Giữa lúc đó, trên sông xuất hiện rất nhiều chiến thuyền, thuận dòng bơi đến. Từ trên thuyền tên bắn xuống như mưa, quân Minh chết vô số, máu tươi nhuộm hồng cả mặt sông.
Bọn Trương Phụ, Mộc Thạnh được chúng tùy tướng hộ tống chạy sang được bờ bên kia, kiểm điểm lại binh mã, thấy chỉ còn lại vài nghìn người, đại tướng Vương Hữu tử trận. Lúc đó, quân Nam lại lên thuyền chuẩn bị vượt sông đuổi theo. Cả bọn không dám chần chờ, vội vã cướp đường mà chạy.
Trên đường đi, quân Minh thường xuyên bị dân binh các thôn làng phục kích, thiệt hại dần. Thỉnh thoảng lại nghe phía sau có tiếng quân Nam hò hét đuổi theo, nên cả bọn đều không dám dừng chân nghỉ ngơi, việc ăn uống chỉ đành gặm lương khô, uống nước lạnh. Đến Nội Bàng, quân Minh chỉ còn lại chưa đến 2.000 người, tất cả đều mệt mỏi vô cùng, chỉ vì sự sống còn nên mới miễn cưỡng cầm cự mà tiếp tục bước đào bôn.