Trưa mười bảy, Bàng đề đốc về đến, ông không quan tâm đến câu chuyện về Triển Phi Hoan mà nghiêm nghị hỏi Tư Đồ Sảng :
Tư Đồ đảng gật đầu :
Bàng Đạo Trí lộ sắc mừng hớn hớ nói :
Lão nói một hơi, chẳng thấy ai lộ vẻ ngạc nhiên nên cụt hứng hỏi :
Chiêu Hương cười khúc khích :
Bàng Đạo Trí ê mặt, uống liền mấy hớp trà rồi hắng giọng nói sang chuyện khác :
Tư Đồ Sảng biến sắc, suy nghĩ rồi hỏi lại :
Bàng Đạo Trí vuốt râu như cố nhớ lại :
Tư Đồ Sảng cẩn thận hỏi thêm :
Bàng Đạo Trí phì cười :
Tư Đồ Sảng thở phào và vui vẻ bảo :
Bàng đề đốc hào hứng kể :
Nóc kho báu có dạng tròn, đường kính độ năm trượng. Nghĩa là tường vây cũng được xây theo đường tròn.
Nóc quốc khố không lợp ngói mà là một vòm bán cầu bằng đồng lá dầy, mạ vàng, đặt trêи đầu tường. Chóp nóc hơi nhọn để nước mưa không thể đọng.
Trêи cạnh chung quanh nóc hình bán cầu ấy, người ta trổ những khung cửa nhỏ để thông sáng và thông gió. Các cửa này đều có cánh bằng pha lê bên trong và cánh bằng đồng bên ngoài, kèm thêm lưới sắt dầy.
Ngay sau khi mặt trời lặn, các ô cửa ấy đều được đóng chặt lại. Do đó, nóc quốc khố hoàn toàn trơn láng, không có chỗ nào cho móc sắt của bọn đạo chích bám vào cả.
Chính vì thế mà bá quan đều tán thành nhận định của tổng bộ đầu Bắc Kinh, rằng Tích Dịch Quỷ Tây Môn Giới là thủ phạm. Chỉ có công phu Bích Hổ Du Tường đặc dị mới có thể giúp tên trộm bò lên đến nóc quốc khố mà cạy cửa sổ, cắt song sắt rồi dùng dây trèo xuống.
Hơn nữa, một gã bộ đầu đã may mắn nhặt được con thằn lằn bằng đồng ở chân vách ngoài quốc khố, bụng khắc chữ Giới. Có lẽ Tây Môn Giới đã vô ý làm rơi”.
Tư Đồ Sảng gật gù, điềm tĩnh nói :
Bàng đề đốc vô cùng hoan hỉ :
Ở đây chỉ có hai người biết Tây Môn Giới là nghĩa phụ của Tư Đồ Sảng. Nhưng vì thấy chàng không nói ra nên Liễu Mộ Hào và Mạc Chiêu Hương cũng ngậm miệng.
Tối đến, Chiêu Hương hạ giọng khẩn cầu :
Tư Đồ Sảng mỉm cười :
Chiêu Hương thẹn thùng nguýt dài rồi bàn :
Tư Đồ Sảng phì cười gật đầu :
Chiều ngày mười chín tháng chạp, bọn Tư Đồ Sảng đã có mặt ở Bắc Kinh, tìm đến phủ đệ của Tam hoàng tử.
Chu Tải Hậu đã được Gia Tĩnh hoàng đế phong làm Dụ Vương nên tư dinh của gã mang chiêu bài Vạn Vương Phủ.
Tòa phủ đệ này nằm trong hoàng thành song lại ngoài tử cấm thành. Khi nào được phong làm hoàng thái tử thì Chu Tải Hậu mới có quyền ở trong hoàng cung.
Nhờ có những giấy tờ đóng dấu ấn tín của thủy sư đề đốc Trực Cô, nên ba người qua được cửa Thừa Thiên Môn, vào trong hoàng thành. Họ đi thêm hơn dặm thì đến vương phủ, tọa lạc tại khu Đông Nam.
Tam hoàng tử vui vẻ tiếp đón ân nhân, xua tay miễn lễ khi họ định khấu kiến :
Khách ngồi rồi, Chu Tải Hậu cười bảo :
Tư Đồ Sảng cười mát :
Rồi chàng giới thiệu Liễu Mộ Hào và Mạc Chiêu Hương với gã.. Chu Tải Hậu cũng tò mò muốn chiêm ngưỡng dung nhan của Chiêu Hương nhưng không tiện mở lời bảo nàng lột mật nạ ra. Lúc này, Chiêu Hương đang mang dung mạo của Tư Mã Khôi. Còn Tư Đồ Sảng thì để lộ chân diện mục.
Tam hoàng tử hắng giọng đi vào đề :
Tư Đồ Sảng khẳng khái đáp :
Chu Tải Hậu cau mày :
Tư Đồ Sảng nghiêm giọng :
Chu Tam gật đầu tán thành :
Tư Đồ Sảng cười nhạt :
Huyết Báo ứng tiếng :
Chu Tải Hậu liền đứng lên, mở tủ lấy ra, đặt trêи bàn. Con thằn lằn bằng đồng này được chế tác rất tinh xảo, sống động, trông như thật vậy.
Liễu Mộ Hào cầm lên ngắm nghía và nhận xét :
Từ đấy, có thể suy ra đây là tác phẩm của một thợ kim hoàn đã nhiều năm kinh nghiệm, nhưng tuổi chưa quá sáu mươi, mắt vẫn còn rất sáng.
Trong lúc y dừng lại để suy nghĩ thêm, Tư Đồ Sảng liền nói :
Chu Tải Hậu rất thông tuệ, hiểu ngay đây là lương sách. Gã vỗ đùi nói :
Và gã mau mắn đưa ra ba tấm thẻ bài bằng bạc, nhỏ hơn lòng bàn tay, có lỗ xỏ dây tơ xanh để đeo vào cổ. Một mặt có năm chữ đúc nổi :
“Minh triều Đại Lý tự” nằm giữa hoa văn rồng mây. Mặt kia là hàng chữ “Nhất đẳng thám tử”.
Chu Tải Hậu còn viết thêm ba tờ giấy chứng nhận thân phận sai nha đóng trêи son đỏ chót. Tất nhiên, tấm của Chiêu Hương mang tên Tư Mã Khôi Gã trao cho ba người và ân cần dặn dò :
Tuy nhiên, đối với bá quan, bổn vương mong chư vị hành sự theo phong cách lễ độ, đúng mực và kiên quyết. Nếu họ có thái độ bất hợp tác thì cứ bảo rằng chính bổn vương đã đích thân ra lệnh.
Bọn Tư Đồ Sảng cảm tạ rồi cáo kɧօáϊ. Họ rời hoàng thành, ra khu ngoại thành, trọ trong Hà Bắc đại lữ điếm.
Gọi là ngoại thành có nghĩa là ngoài hoàng thành chứ không phải ngoại ô. Và chính nơi đây mới là khu vực sầm uất, phồn thịnh nhất Bắc Kinh. Trong hoàng thành chỉ có dinh thự của các đại thần và hoàng thân quốc thích. Còn ngoại thành thì đầy dẫy hiệu buôn, lâu quán, đường phố nhộn nhịp ngựa xe, người ngựa.
Dĩ nhiên, cơ sở Hắc Hiệp hội ở Bắc Kinh có số đệ tử rất đông đảo, khoảng độ hai trăm.
Tây Môn Giới là một kỳ nhân nên đã nảy sinh một ý tưởng kỳ dị là gầy dựng nên Hắc Hiệp hội.
Ông không tiêu diệt cái ác mà nuôi dưỡng nó, lèo lái nó vào khuôn khổ. Số lượng hội viên Hắc Hiệp hội mỗi địa phương hầu như không thay đổi hoặc tăng lên rất chậm.
Chính hoàn cảnh nghèo khó, thiếu thốn đã biến một lương dân thành trộm cắp. Do vậy, khi có ai đó vì hoàn cảnh mà sa sút lương tâm, Hắc Hiệp hội lập tức giúp đỡ họ bằng cách tìm cho một công việc làm hay cấp cho một số vốn để mưu sinh.
Để phục vụ cho mục đích ấy, Tây Môn Giới đã dùng số tài sản trộm cắp mà thành lập những cơ sở kinh doanh như quán trọ, tửu điếm, xưởng thủ công, hiệu buôn si, tiền trang.. lợi tức thu được tiếp tục mở rộng không ngừng.
Cách làm ăn hay ho này, mấy trăm năm sau, được hậu thế gọi nôm na là “rửa tiền”.
Nhưng Tây Môn Giới có thủ đoạn phi thường gì để giữ vững lòng trung thành của bọn trộm cắp. Ông có hai cách, một là cho họ được nhận phần thỏa đáng với công lao. Hai là trừng trị thẳng tay những kẻ phản bội.
Lực lượng chấp pháp của Hắc Hiệp hội chỉ có đúng bảy người, gọi là Thất Tinh Hình Sứ. Trừ Tây Môn Giới ra không ai biết được lai lịch cũng như mặt thật của bảy sát thủ này.
Khi Thất Tinh Hình Sứ ra tay thì quỷ không hay, thần không biết, nạn nhân sẽ chết bởi một mũi châm tuyệt độc tắt thở trong nửa khấc.
Con người luôn sợ hãi những cái vô hình, những điều thần bí, nhờ vậy mà quy củ Hắc Hiệp hội được giữ vững, bí mật tồn tại suốt mấy chục năm ròng.
Khi một tên trộm bị bắt, dẫu có bị tra tấn bằng cực hình gã cũng không bao giờ mở miệng nhắc đến Hắc Hiệp hội. Và thế là ít lâu sau gã được thả ra bởi quan sở tại đã nhận một số vàng hối lộ. Nếu chẳng may gặp phải một vị quan thanh liêm thì gã cứ yên tâm, chịu án tù vì vợ con ở nhà đã có người lo chu đáo.
Trong nội quy của Hắc Hiệp hội có hai điều quan trọng là không được lấy của dân nghèo hoặc người giầu có mà nhân hậu, không được chạm đến kho lẫm của triều đình, kể cả các sở đúc tiền.
Do đó, khi nghe Tư Đồ Sảng hỏi, phân hội chủ Bắc Kinh tái mặt biện bạch :
Ông ta tuổi đã bảy mươi, tên gọi là Hà Minh Quang, trước kia thành danh Đại Nhĩ Thử ở vùng Hồ Bắc, vì có đôi vành tai vểnh rất lớn.
Tư Đồ Sảng nghiêm giọng :
Đại Nhỉ Thử cung kính nhận lệnh, hứa sẽ thi hành ngay.
Quả nhiên, Liễu Mộ Hào đã đoán đúng. Khi muốn đúc một vật gì đó, người ta phải tạo mẫu bằng gỗ mềm, sau đó, in mẫu ấy sâu xuống cát để làm khuôn, rồi róc đồng nóng chảy vào. Và cái xưởng đồng kia vẫn còn giữ lại mẫu bằng gỗ, giờ sẽ lấy ra sử dụng lại nếu có người đặt hàng.
Xế chiều, Hà lão mang đến cho Tư Đồ Sảng cái chàng cần, cùng địa chỉ của xưởng đúc Kế Thiện của lão Quách Tam ở phía Tây đài Thần ʍôиɠ.
Bọn Tư Đồ Sảng mừng rỡ đi ngay đến nơi ấy. Họ đều rinh đao cho giống công sai.
Thấy ngân bài Đại Lý tự và ba gương mặt lạnh lẽo, lão chủ lò đúc sợ khϊế͙p͙ vía, mau miệng khai rằng hồi đầu tháng có một hán tử trung niên đến đặt đúc hẹn lấy vào ngày mùng tám. Gã này xưng là họ Tiền, để lò đúc ghi vào giấy hẹn.
Tư Đồ Sảng cau mày và hỏi thêm :
Quách Tam đắc ý bảo :
Tư Đồ Sảng hài lòng dặn lão :
Quách Tam dạ rối rít, hứa sẽ bảo mật.
Khi ra ngoài rồi, Chiêu Hương hào hứng bảo :
Tư Đồ Sảng tư lự đáp :
Liễu Mộ Hào lên tiếng :
Ngay sáng hôm sau, Tư Đồ Sảng một mình đến vương phủ kể lại việc tìm ra nơi sản xuất tang vật. Chu Tải Hậu trầm ngâm một lúc rồi nói :
Tư Đồ Sảng điếm tĩnh đáp :
Tam hoàng tử gật đầu :
Tư Đồ Sảng bàn thêm :
Nhưng theo thiển ý của thảo dân thì Tang Sơn Phú không dám gửi số của cải ấy mà đã chuyển cho Hoàng Lập.
Chu Tải Hậu khen phải, ra lệnh cho tả hữu đi điều động hai ngàn quân cấm vệ.
Tam hoàng tử và Tư Đồ Sảng dẫn cánh quân thứ nhất đến vây tư dinh của quan Hiệu úy Hoàng Lập. Lão một mực kêu oan, cho phép lục soát thoải mái.
Đã hợp đồng từ trước nên Huyết Báo và Mạc Chiêu Hương cũng có mặt nơi này. Họ cùng ngồi với Tư Đồ Sảng và Tam hoàng tử trong phòng khách lớn nhà họ Hoàng, chờ kết quả.
Chỉ còn vài ngày nữa là đến năm mới nên khách sảnh được trang hoàng lộng lẫy, tường quét vôi lại như mới, những vật bằng đồng được chùi sáng loáng. Và trêи bức tường cuối sảnh có treo cặp liễu mừng xuân rất lớn :
“Thiên tăng tuế nguyệt nhân tăng thọ Xuân mãn càn khôn phúc mãn đường”.
Hai câu đối ấy cũng được viết bằng lối thư pháp cuồng thảo, khiến Chiêu Hương nhớ lại giai thoại về gã dốt Triển Phi Hoan, kẻ đã từng bó tay trước kiểu chữ phóng túng này.
Nàng tủm tỉm cười, thì thầm với Tư Đồ Sảng :
Tư Đồ Sảng bật cười, đưa mắt ngắm nhìn những nét chữ uyển chuyển, nối nhau bay bổng. Đúng lúc ấy, gã chỉ huy đội cấm quân vào báo rằng đã xem xét rất kỹ mà không hề tìm thấy tài sản quốc khố.
Tư Đồ Sảng có thính lực rất tốt, thoáng nghe được tiếng thở phào của lão họ Hoàng. Nghĩa là nãy giờ lão thấp thỏm sợ hãi, lo việc bị bại lộ, vì quả thực tang vật được giấu ở đây.
Chàng âm thầm quan sát Hoàng Lập và chợt phát hiện có lần lão liếc nhanh về phía đôi liễn. Một ý niệm bừng sáng trong đầu Tư Đồ Sảng nên khi Chu Tải Hậu vừa ra lệnh rút quân thì chàng nói :
Rồi chàng rảo bước đến, tung mình lên gỡ vế đối bên tả, mang xuống đất. Chỉ cần nhìn nét mặt tái xanh của họ Hoàng là Tư Đồ Sảng hiểu ngay mình đã phán đoán không sai.
Bốn bức cổ họa bị mất cắp đều bằng lụa, không thể chôn xuống đất vì dù cho có bọc vải sơn thì nét mực vẽ cũng bị hơi ẩm làm nhòe đi. Giờ đang là tiết đông, tuyết phủ đầy mặt đất, chẳng nơi nào khô ráo nổi.
Tư Đồ Sảng mau chóng tìm thấy hai bức họa được khâu úp phía sau mảnh liễn. Lão tổng bộ đầu chưa kịp có phản ứng gì thì đã bị Huyết Báo kê đao vẹo cổ Chu Tải Hậu giận dữ nạt :
Thượng tuần tháng hai năm Gia Tĩnh thứ ba mươi bốn, bọn Tư Đồ Sảng về đến Thúy Phong cốc ở phủ Lạc Dương nhưng không có Mạc Chiêu Hương theo cùng.
Cậu nàng, thủy sư đề đốc Bàng Đạo Trí, đón xuân quá nhiệt tình nên đầu năm mới đã liệt giường vì bệnh xuất huyết dạ dày. Do vậy, Mạc Chiêu Hương phải ở lại chăm sóc cửu phụ, chờ lão bình phục mới đi Lạc Dương được.
Tư Đồ Sảng đi trước, dẫn dường cho Huyết.Báo vượt qua trận kỳ môn trước cửa cốc. Trận pháp này Táo Già Cát và Lăng Phi Hồng đã dựng nên trước khi chàng đi Bắc Kinh.
Tuy tin tưởng rằng không ai biết mối quan hệ của mình với Thúy Phong cốc chủ Tư Không Chất nhưng Bùi lão vẫn thận trọng lập trận để bảo vệ nơi ẩn náu.
Khung cảnh điêu tàn bên trong sơn cốc đã khiến hai người phải kinh hoàng. Tất cả nhà cửa đều đã bị chôn vùi dưới những tảng đá khổng lồ và đất cát Tư Đồ Sảng run rẩy ngước lên nhìn thì phát hiện sườn núi phía Bắc bị sạt lở một mảng rất lớn. Trước đây, nơi ấy cây cối mọc xanh rì, giờ trơ đất đá loang lổ và nham nhở.
Tư Đồ Sảng gào lên như điên loạn, phi thân trêи những tảng đá, kêu tên người thân. Và chàng bươi móc lớp đất đá dầy đến mấy trượng một cách tuyệt vọng.
Liễu Mộ Hào trầm tĩnh hơn, trấn an chàng :
Tư Đồ Sâng nghẹn ngào nói :
Huyết Báo nghe cũng có lý song vẫn cãi để làm cho Tư Đồ Sảng phân tâm, không quá bi lụy nữa :
Tư Đồ Sảng xuôi tai, lau nước mắt bảo :
Lúc này, hai người đang đứng ở giữa sơn cốc. Chợt Tư Đồ Sảng nghe từ hướng vách núi phía bắc phát ra tiếng rít thê lương rất quen tai của con chồn hương mà chàng đã mua và thả ở cánh rừng bên kia sông Chương Hà.
Tư Đồ Sảng phản ứng rất nhanh, lướt thẳng về hướng ấy một cách vô ý thức. Huyết Báo không hiểu tại sao nhưng cũng vội bám theo. Đến nơi, Tư Đồ Sảng phát hiện một hốc đá không lớn lắm và chỉ sâu độ hơn trượng, đứng ngoài có thể nhìn rõ bên trong. Chàng chưa kịp ngạc nhiên vì chẳng có con chồn nào thì hai tiếng nổ long trời đã vang lên và đất đá lưng chừng hai sườn núi Đông Tây đã ập xuống, phát ra những tiếng động kinh hồn, tựa thiên binh vạn mã đang trẩy quân qua đây.
Huyết Báo cũng đã đến sau lưng Tư Đồ Sảng, lập tức xô chàng vào hốc đá ấy và lao theo.
Hằng ngàn, hàng vạn tảng đá lớn nhỏ rơi xuống như thác lũ, tảng sau va vào tảng trước, bắn văng khắp diện tích sơn cốc. Nghĩa là, nếu còn đứng ở chỗ cũ thì hai người hoàn toàn không có cơ may sống sót.
Nhưng miệng hang khá hẹp nên chỉ có những mảnh đá vụn lọt qua được, và chúng không đủ sức đả thương bọn Tư Đồ Sảng. Thực ra chỉ có mình Huyết Báo đưa lưng ra chịu trận. Gã đã dùng thân xác mình che chở cho Tư Đồ Sảng.
Hơn nửa khắc sau vụ lở núi mới chấm đứt, cát bụi lắng dần xuống.
Lúc này cửa hang đã bị lấp gần hết bởi một tảng đá lớn.
Hai nạn nhân vừa định chui qua khe hở phía trêи để ra ngoài thì nghe vang vọng một giọng cười ngạo nghễ.
Huyết Báo sợ Tư Đồ Sảng loạn động liền nắm chặt tay giữ lại và nói :
Tư Đồ Sảng gật đầu, người run lẩy bẩy, lệ chảy dài trêи gương mặt lem luốc. Chàng nghẹn ngào bảo :
Ý chàng nhắc đến sáu người thân trong sơn cốc này. Và có thể là bẫy nếu Tây Môn Giới cũng hiện diện đúng lúc ẩy.
Bỗng Huyết Báo vỗ trán nói :
Tư Đồ Sảng bừng tỉnh, cau mày nhăn trán, cố hồi ức lại song chỉ hoài công. Chàng bực bội nói :
Khi chui hẳn ra ngoài, hai người bất giác rùng mình trước cảnh tượng sơn cốc. Họ thức ngộ rằng mình đã thoát chết trong gang tấc.
Huyết Báo sực nhớ ra, hỏi Tư Đồ Sảng :
Tư Đồ Sảng bâng khuâng kể lại việc nghe được tiếng chồn kêu. Liễu Mộ Hào nhăn mặt :
Huyết Báo vốn không tin chuyện quỷ thần, hồ ly, đã từng cười cợt câu chuyện thả chồn của Tư Đồ Sảng. Vì vậy, hôm nay chàng không muốn nhiều lời tranh cãi. Vả lại, trong lúc hoang mang, đau khổ, chàng cũng không dám tin chắc vào thính giác của mình.
Hai người rời Thúy Phong cốc, may thay gặp ngựa thả ở bìa trận đã khôn ngoan chạy ngược ra ngoài, đang luẩn quẩn trong trận pháp.
Trời đã chiều, họ ghé vào giòng suối gần đấy mà tắm gội, cả hai đểu bẩn như ma lem. Nước suối rất lạnh vì do tuyết trêи đỉnh núi tan ra và chảy xuống. Cái lạnh đã giúp hai người tỉnh táo lại. Mặc y phục sạch vào xong, Huyết Báo trầm ngâm bảo :
Tư Đồ Sảng lắc đầu :
Huyết Báo hỏi lại :
Gã bực bội trách móc :
Tư Đồ Sảng vội biện minh cho nghĩa phụ :
Huyết Báo nghe xong trợn mắt thét lên :
Đúng rồi! Giọng cười lúc nãy chính là của lão ta. Trong đại hội võ lâm ta đã nghe lão cười chế giễu Triển Phi Hoan. Tư Đồ Sảng cũng đã tỉnh ngộ run giọng xác nhận :
Không thể sai được! Té ra là lão cẩu tặc ấy đã hãm hại gia nghĩa phụ để đoạt lấy cơ nghiệp Hắc Hiệp hội. Lão giết luôn những người thân cận với Tây Môn nghĩa phụ để không còn ai điều tra hoặc báo thù!
Do đã xác định được hung thủ nên bọn Tư Đồ Sảng cải trang rồi mới vào thành Lạc Dương. Sử dụng hai trong ba chiếc mặt nạ mà Tây Môn Giới đã tặng Tư Đồ Sảng. Những diện mạo giả này Tích Dịch Quỷ chưa dừng qua bao giờ nên không sợ lộ. Mộ Hào trở thành một hán tử trung niên mặt rỗ. Còn Tư Đồ Sảng mang dung mạo của Tư Mã Khôi song bỏ bớt bộ râu mép đi.
Hai con ngựa của họ có mầu lông hung đỏ rất bình thường và không có đặc điểm gì cần phải che giấu.
Sau khi mướn phòng trọ và ăn uống xong, bọn Tư Đồ Sảng dạo một vòng qua các cơ sớ bí mật của Tây Môn Giới. Tất cả đều im lìm, không một ánh đèn, mặc dù lúc trước chỗ nào cũng có người túc trực.
Không hỏi thăm được, hai người đành chờ Tây Môn Giới đến tìm.
Ông ta phải nhận ra những chiếc mặt nạ của mình.
Sau ba ngày lê la khắp các trà lâu, tửu quán trong thành, hai người thất vọng, cho rằng Tây Môn Giới chắc cũng chết trong Thúy Phong cốc.
Tư Đồ Sảng quyết định xuôi Nam, đến Tín Dương tìm lão Hý Nhân cư sĩ mà hỏi tội.
Cảnh vật mùa xuân dọc đường thiên lý bội phần xinh đẹp nhưng Tư Đồ Sảng chẳng còn tâm trí đâu mà thưởng thức. Tim chàng luôn thổn thức tiếc thương những người thân, nhất là hai ái thê. Họ còn quá trẻ, xuất giá mà không kiệu hoa, không pháo cưới, vui bên chồng chưa bao lâu thì đã phải âm dương cách biệt.
Chiều mười ba tháng hai, bọn Tư Đồ Sảng còn cách bờ Bắc sông Hoài hơn chục dặm. Giờ này đò ngang đã sắp ngưng hoạt động nên lữ khách và thương lái đều tìm chỗ qua đêm, chờ sáng mới sang sông.
Chính vì vậy mà đường quan đạo cực kỳ vắng vẻ, chỉ có mình Tư Đồ Sảng và Huyết Báo dong ruổi. Họ không sợ ai cướp bóc nên cứ đi và sẽ nghỉ chân ở quán trọ gần bờ sông.
Lúc sắp phóng ngựa ngang qua ngôi Thập Lý Đình mé hữu quan đạo, Tư Đồ Sảng tinh mắt phát hiện một người mặc tăng bào vàng đang nằm sóng xoài trêи bãi cỏ dưới thềm đình.
Chàng đưa tay ra hiệu với Huyết Báo rồi rẽ vào xem thử. Nạn nhân là một lão hòa thượng gầy gò, mắt nhỏ mũi thấp, trông không giống người Hán lắm.
Vị sư già ấy có nước rám nắng của một người quen phiêu bạt phong trần. Tấm áo cà sa mầu vàng đỏ giờ đây đã bạc, sờn rách nhiều chỗ.
Tư Đồ Sảng vội bồng lão hòa thượng tội nghiệp ấy vào trong đình rồi thăm mạch. Tuy thời gian bên nhau không nhiều song Lăng Phi Tuyết đã bắt chàng phải học một vài nét căn bản của y thuật. Và khi chàng đi xa đã nhét vào tay nải của chàng hàng tá chai lọ chứa linh lan, có thể chữa trị từ bệnh sổ mũi đến trọng thương.
Nhờ thế mà giờ đây Tư Đồ Sảng có thể xác định nạn nhân đang bị cảm sốt rất nặng do dầu dãi nắng mưa quá nhiều. Chàng liền hạ sốt cho người bệnh bằng khăn vải và nước mát trong túi da, đồng thời cho ông ta uống thuốc.Trong lúc Tư Đồ Sảng bận rộn chăm sóc lão hòa thượng thì Huyết Báo mở túi hành lý nhỏ bé đang nằm lăn lóc dưới đất ra xem.
Tính gã rất cẩn thận, khi giúp ai hoặc giết ai thì đều thẩm tra kỹ lưỡng.
Trong túi vải vàng ố ấy chỉ có một bộ tăng bào thứ hai, và một tờ thông quan điệp do quan Đô Ty ở xứ Tây Tạng cấp.
Trong tờ điệp này nói rõ lão hòa thượng là trưởng lão của chùa Bố Đà La Tự, pháp danh Trát Thập thiền sư.
Trát Thập vào Trung Nguyên với nhiệm vụ là tìm kiếm và thu hồi lại bảo vật của Bố Đà La Tự, là cây rìu hai lưỡi bằng huyền thiết, tên gọi Giáng Ma phủ.
Ngài Đô Ty Tây Tạng mong mỏi quan lại các địa phương giúp đỡ cho Trát Thập thiến sư.
Đọc xong, Huyết Báo chửi thêm :
Lúc này, Trát Thập vẫn còn mê man song thần nhiệt đã hạ, kinh mạch điều hòa, không đáng lo nữa. Tư Đồ Sảng cho bệnh nhân gối đầu lên tay nải của chàng rồi quay sang hỏi Huyết Báo :
Liễu Mộ Hào thở dài, trao tấm thông quan điệp cho Tư Đồ Sảng xem, chờ chàng đọc xong, Huyết Báo mới nói :
Tư Đồ Sảng cười thảm :
Huyết Báo cười nhạt :
Tư Đồ Sảng nhìn gương mặt già nua, nhăn nheo của Trát Thập, lòng vô cùng bất nhẫn. Chàng nói với vẻ kiên quyết :
Liễu Mộ Hào càu nhàu :
Tư Đồ Sảng liền trấn an gã :
Bỗng người bệnh phát ra tiếng rêи và mở mắt. Ông gượng ngồi lên mỉm cười :
Thì ra thiền sư đã hồi tỉnh, nghe được câu nói của Tư Đồ Sảng.
Chàng ngượng ngùng kéo áo, quỳ xuống đảnh lễ và tháo bao da hươu đặt trước mặt ông ta. Chàng nghiêm nghị nói :
Trát Thập hiền hòa bảo :
Tư Đồ Sảng vô cùng khâm phục, không ngờ ông ta đang bệnh hoạn mà còn phát giác ra việc chàng mang mặt nạ. Chàng vội lột lớp da hóa trang, cố chịu đựng ánh mắt chăm chú của đối phương.
Lát sau, Trát Thập thiền sư gật gù nói :
Tư Đồ Sảng buồn rầu đáp :
Trát Thập thiền sư lắc đầu :
Liều Mộ Hào nghe thuyết pháp mà đầu ốc rối tung, bực bội cướp lời thiền sư :
Trát Thập thản nhiên đáp :
Huyết Báo cứng họng, không sao tìm ra lý lẽ để cãi lại. Quả đúng là gã đã giết khá nhiều người, kẻ thù ở khắp nơi.
Tư Đồ Sảng càng bội phần thấm thía khi nhớ đến việc mình có thể đã giết chết Lăng Khải Trạch, gây mối thù với Lăng Song Tường. Thực ra, gã chẳng phải là kẻ thù của chàng.
Tư Đồ Sảng toát mồ hôi, khấu đầu nói :
Mẹ chàng, Võ Xuân Hoa là người mộ đạo Phật nên chàng cũng có thiên hướng ấy. Nay được Trát Thập thiền sư tận tâm chỉ điểm, chàng lĩnh hội được nhưng không nhiều vì lòng đang chất chứa hận thù.
Trát Thập hài lòng, tủm tỉm bảo :
Tư Đồ Sảng kinh hãi :
Trát Thập mỉm cười hóm hĩnh :
Tư Đồ Sảng băn khoăn nói :