Gần cuối tháng hai họ về đến Thượng Thanh cung. Trương Thiên Sư hoan hỉ phi thường, lập tức gửi thư cho Giả gia trang, hẹn gặp tại Lư Lăng đung trưa ngày mùng sáu tháng ba. Giả Bạch Hồ nhận lời ngay, viết thư phúc đáp.
Trong thời gian ngắn ngủi còn lại, Tư Đồ Sảng luyện tập bằng thanh kiếm mới. Chàng hài lòng vì sức nặng của Từ Tâm kiếm rất vừa tay, phát huy được uy lực mãnh liệt của chiêu thức mà không làm giảm độ nhanh của đường gươm.
Chàng thức ngộ rằng công lực mình đã tăng tiến thêm một bậc nhờ lợi ích của Khô Mộc tâm pháp. Hôm chạm trán với Lăng Khải Trạch ở Trực Cô Tư Đồ Sảng chỉ bị phỏng nhẹ trong khi vết thương của Triển Phi Hoan rất nặng. Từ đó chàng không ngừng khổ luyện, chẳng bỏ một ngày nào, mong sao sớm đủ sức diệt thù.
Cuối tháng hai, đột nhiên Tây Môn Giới trong vai Hí Nhân cư sĩ, xuất hiện ở Long Hồ sơn. Lão nghiêm nghị nói :
Lăng Song Tường muốn đòi lại số tài sản đã bị mất. Song không ngờ rằng ba người ấy đã trong Thúy Phong cốc.
Trương Thiên Sư kinh hãi thốt :
Tây Môn Giới mỉm cười :
Lão ngắm nghía Trương Thiên Sư và hỏi :
Trương Hàn Vũ ngượng ngùng đáp :
Quả đúng như thế, với thân phận cực kỳ tôn quý, Trương Thiên Sư chẳng thể tùy tiện ra tay và cũng không có ai dám đụng đến lão.
Tây Môn Giới hài lòng bảo :
Và lão đắc ý lấy ra một tấm mặt nạ có râu, trao cho Tư Đồ Sảng :
Tư Đồ Sảng tuân lệnh và lập tức biến thành nhột Trương Hàn Vũ thứ hai, chỉ khác mầu tóc.
Trương Thiên Sư bàng hoàng bảo :
Trường Thiên Sư đã được nghe học trò là Linh Tiếu Tử thuật lại âm mưu của Hí Nhân cư sĩ. Nay tận mắt chứng kiến thủ thuật phi thường của Tây Môn Giới ông mới đánh giá hết được hiểm hoạ.
Tam Dương chân nhân cũng toát mồ hôi, thầm rủa mình là kẻ đui mù nhận giặc làm anh em. Lão nghe da mặt ngứa ngáy bởi ánh mắt giễu cợt của Linh Tiếu Tử liền hỏi bừa một câu cho đỡ thẹn :
Lão đã làm một điều đại kỵ khi dò hỏi bí mật tuyệt kỹ của người khác.
Trương Thiên Sư cau mày định gạt đi thì Tây Môn Giới đã thản nhiên giải thích :
Nghe xong, Linh Tiếu Tử bật cười :
Tây Môn Giới cười ruồi :
Trương Thiên Sư kinh ngạc nói :
Tây Môn Giới mỉm cười, nói lảng qua chuyện khác :
Tư Đồ Sảng gật đầu tuân mệnh và chàng xoay qua kính cẩn nói với Trương Thiên Sư :
Trương Hàn Vũ mừng rỡ đáp :
Thì ra, Tư Đồ Sảng đã sớm trao tuyệt học cho Trương Thiên Sư chứ không ích kỷ giữ cho riêng mình. Tiếc rằng, căn cơ võ học của Giáo chủ và các hộ pháp không đủ để luyện. Hoặc giả họ quá bận rộn vì giáo vụ, chẳng có thời gian. Kẻ thiếu thiên bẩm sẽ phải mất hàng năm cho chỉ một chiêu kiếm Huyền Nguyên.
Xế trưa ngày mùng sáu tháng ba, đoàn đại biểu Thiên Sư giáo đã có mặt ở Bảo Thạch, ngoại thành Lư Lăng. Hai ngàn công nhân mỏ đá đã tề tựu đông đủ và vô cùng cảm động khi nghe nói Trương Thiên Sư sẽ đích thân chiến đấu cho quyền lợi của họ.
Trong con mắt của những tín đồ nghèo khổ kia thì Trương giáo chủ chính là một vị thánh sống, bởi ông ta mang gióng máu thần tiên của tổ sư Trương Đạo Lăng. Nay vị thánh ấy lại vì chén cơm manh áo của giáo chúng mà dấn thân vào chốn hiểm nguy khiến lòng người cành bội phần kính ngưỡng.
Họ quỳ cả xuống vái lạy, nước mắt nhạt nhòe. Trương Thiên Sư, tức Tư Đồ Sảng chợt thức ngộ ra rằng nếu Thiên Sư giáo thực sự hùng mạnh thì sẽ là chỗ dựa cho hàng trăm vạn tín đồ nghèo khổ dốt nát.
Đạo quán Thiên Sư có mặt ở khắp nơi, được quan lại địa phương nể nang. Giả như bọn đạo sĩ không quá xem trọng đến những nghi thức tôn giáo và lợi tức của đạo quán, mà chú tâm hơn đến quyền lợi thiết thân của giáo chúng, xả thân bênh vực họ, thì lê thứ đã bớt lầm than.
Nhưng hỡi ôi! Ích kỷ tư lợi, cầu an lại chính là bản chất của đa số người Trung Hoa! Và do gồm nhiều sắc dân, nhiều loại ngôn ngữ nên tính cục bộ địa phương của họ rất cao. Bởi thế cho nên, tinh thần dân tộc của họ kém xa những nước nhỏ bé như An Nam, Cao Ly, Nhật Bản.
ʍôиɠ Cổ, Mãn Châu.
Chính những bậc thức giả nhừ Ly Giang Tiên Ông, Táo Gia Cát và Tư Đồ Quát đã nhận ra sự thực chua chát ấy, và tâm sự với Tư Đồ Sảng.
Giờ đây, chàng đứng trước hàng ngàn cặp mắt ngưỡng mộ vá biết ơn, lòng chợt phát nguyện sẽ tận lực đấu tranh vì họ cũng như hàng ngàn vạn người nghèo khổ thác. Nhờ phụ thân mà Tư Đồ Sảng có một tinh thần hiệp sĩ và một nhận thức rộng rãi, sâu sắc về lịch sử Trung Hoa. Chàng hiểu rõ những khuyết ciểm của dần tộc mình và muốn hoàn thiện chúng.
Đúng đầu giờ ngọ, phe Kỳ Lân bang xuất hiện. Quả đúng như phán đoán của Tây Môn Giới, bên cạnh Giả Bạch Hổ có cả Hạo Thiên cung chủ Lăng Song Tường và Môn Xuyên Bá Đao Tần Cốc Lý. Ngoài ra còn hiện diện thêm hai nhân vật lạ mặt như Thập Tự Thần Kiếm Phan Tử Mỹ và Giả Đan Quỳnh.
Tư Đồ Sảng nhận ra ngay kẻ thù vì Phan Tử Mỹ có gương mặt đẹp và si ngốc. Lão luôn nở nụ cười ngớ ngẩn, mắt lạc thần, lúc nào cũng như tập trung vào một điểm rất xa xăm.
Giả đại tiểu thư đã bình phục hoàn toàn, có da có thịt chứ không khẳng khiu, trơ xương như lúc trước. Tất nhiên, giờ đây nàng rất xinh đẹp song dung nhan kém tươi, ánh mắt buồn rầu.
Tư Đồ Sảng đang lo lắng vì không thấy Triển Phi Hoan đi theo Cung chủ Hạo Thiên cung thì Giả Bạch Hổ lên tiếng hỏi :
Nếu Trương Hàn Vũ có mặt chắc sẽ hổ thẹn vì đã tưởng lầm rằng mình sáng suốt lừa được đối phương. Té ra là Giả Bạch Hổ đã sớm biết Tư Đồ Sảng là đệ tử Ly Giang Tiên Ông và cũng là người của Thiên Sư giáo.
Trương Thiên Sư, tức Tư Đồ Sảng, cười nhạt đáp :
Tri phủ Lư Lăng Vũ Cư Sơn hoảng hốt nói :
Lão nói không sai vì chính Thiên Tử nhà Minh còn phải cung kính với Trương Hàn Vũ, Giáo chủ của mấy trăm vạn tín đồ đạo giáo.
Tư Đồ Sảng cười nhạt :
Rồi chàng quay sang bảo Tần Cốc Lý :
Tri phủ Lư Lẳng đã tìm ra chủ ý, dõng dạc cảnh báo phe Kỳ Lân bang :
Phe Kỳ Lân bang vô cùng chán nản, chẳng biết phải tính sao. Họ đến đây vì Tư Đồ Sảng chứ không phải vì Trương Hàn Vũ.Tư Đồ Sảng nhẹ nhàng khiêu khích :
Vũ tri phủ mừng rỡ tán thành :
Môn Xuyên Bá Đao còn đang suy nghĩ thì Giả Đan Quỳnh lạnh lùng lên tiếng :
Giọng điệu khắc bạc của Giả Đan Quỳnh đã khiến Tần Cốc Lý phải ngượng ngùng, đành bước ra :
Tư Đồ Sảng cố giấu nỗi hân hoan ngút trời vì có cơ hội báo thù. Tần Cốc Lý chưa khôi phục toàn bộ võ công tất không thể thi triển. Ngưng Huyết Huyền Băng Thần Chưởng được. Và nếu thế thì chàng tự tin trong vòng trăm chiêu có thể khiến họ Tần phải rưới máu chốn này.
Tư Đồ Sảng xiết chặt chuôi gươm chờ đợi, lòng thầm khấn vong linh phụ mẫu.
Mân Xuyên Bá Đao Tần Cốc Lý nhỏ tuổi hơn, được quyền xuất thủ trước. Lão thận trọng múa đao, đánh một chiêu công thủ vẹn toàn.
Tư Đồ Sảng ung dung giải phá và phản kϊƈɦ nhẹ nhàng, đúng tính cách của một bậc tôn sư. Chàng không được quyến để lộ việc hóa trang thành Trương Hàn Vũ. Điều này liên quan đến thanh danh của Thiên Sư giáo cũng như đại cục võ lầm sau này.
Tây Môn Giới đã dặn dò chàng rất kỹ lưỡng và tiên liệu cả trường hợp Tần Cấc Lý có thể sẽ ra tay.
Nhắc lại, Mân Xuyên Bá Đao thấy Trương Thiên Sư không tỏ thái độ quyết liệt hoặc hận thù gì lòng cũng bớt lo. Nãy giờ lão căng mắt quan sát gương mặt của Trương Hàn Vũ vì nghi ngờ rằng có sự giả trá.
Kế thay mận đổi đào của Nam Hải Tiên Ông là một bài học xương máu cho Tần Cốc Lý.
Nhưng thực ra Bá Đao chỉ không muốn bị lừa chứ chẳng hề đánh giá cao cái gã Thần Phủ Lang Quân Tư Đồ Sảng. Tiểu tử ấy quen sử dụng búa, nay chuyển qua học kiếm thì dù có học thầy giỏi cỡ Ly Giang Tiên Ông thì cũng không thể đật trình độ thượng thừa ngay được.
Việc Tư Đồ Sảng so kiếm với Tiên Nhân Động Chủ Tất Linh Kỳ đã được Thiên Sư giáo giữ kín. Phần họ Tất cũng chẳng dại gì khai ra mối nhục thảm bại.
Tần Cốc Lý yên tâm thi thố sở học, đường đao ngày càng mãnh liệt và quỷ dị.
Đao kiếm chạm nhau liên hồi, Tần Cốc Lý nghé cánh tay chấn động mà ước lượng đối phương có khoáng năm mươi năm tu vi, phù hợp với tuổi tác. Lão không ngờ rằng thanh Từ Tâm kiếm rất nặng nên đã tạo cho đối thủ cảm giác ấy.
Tư Đồ Sảng nhẫn nại giữ phong thái điềm đạm của một bậc Giáo chủ, hoà hoãn chiết giải những chiêu đao hung hãn của họ Tần, chỉ giữ thế quân bình. Chàng có lợi thế là từng được xem trận đấu giữa Bá Đao và Giáp Vô Yên giả ở đại hội võ lâm. Lần ấy, Tần Cốc Lý đã tung ra những chiêu lợi hại nhất, chẳng giữ lại chút vốn liếng nào. Tất nhiên, không phải chỉ xem qua là có thể học lóm, hay giải phá sở học của kẻ khác, song ít nhất Tư Đồ Sảng cũng có khái niệm về lộ số của pho đao pháp ấy.
Cây hương thời gian cứ ngắn dần đi và quan Tri Phủ họ Vũ cao giọng nhắc nhở :
Nghĩa là trận đấu chỉ còn một nửa thời gian và nếu Trương Thiên Sư không đâm rách áo đối thủ thì sẽ thua cuộc, ông đã tuyên bố thế mà.
Tư Đồ Sảng làm như nóng ruột, bắt đầu tăng tốc độ đường gươm.
Ngược lại Tấn Cốc Lý chẳng hề gấp gáp, vì tin chắc rằng mình thừa sức cầm chân Trương Thiên Sư đến hết thời gian và đương nhiên thắng lợi, còn việc giết hay đả thương Trương Thiên Sư là một điều dại dột, lão không hề nghĩ tới.
Trong mưu đồ thống trị võ lâm, lão không tính đến Thiên Sư giáo, một tổ chức mang tính tôn giáo hơn là võ phái.
Nhưng trận so tài hôm nay đã chứng tỏ sự lợi hại của pho Huyền Nguyên kiếm pháp. May mà Trương Hàn Vũ thiếu kinh nghiệm giao đấu nên đã bỏ qua những cơ hội tốt, không thôi áo họ Tần đã rách từ lâu rồi. Cốc Lý hiểu rằng đường gươm của Trương Thiên Sư ảo điệu phi thường song không phát huy được hết tinh túy vì bản thân người cầm kiếm thiếu những đòn đúng lúc và dứt khoát. Kinh nghiệm giao đấu là thực tiễn xương máu, không thể học bằng sách vở được.
Với tâm trạng chủ quan khinh địch ấy, Tần Cốc Lý bình tâm đối phó với những thức kiếm đẹp mắt nhưng không đáng sợ của Trương Thiên Sư. Thép cứ chạm thép vang rền, Trương Hàn Vũ xông vào là bị bật ra, không sao phá được màn đao quang sáng trắng chứa đầy kình lực của họ Tần.
Tư Đồ Sảng biết đã đến lúc rửa thù nhà, dồn toàn lực xuất chiêu Thượng Thiện Nhược Thủy (Bậc Đại thiền nhân như nước vậy).
Đây là chiêu cuối cùng trong pho Huyền Nguyên kiếm pháp, cũng là chiêu mà chàng đã dùng để đả thương Tiên Nhân Động Chủ Tất Linh Kỳ.
Giờ đây, công lực Tư Đồ Sảng đã tăng thêm một bậc nên uy lực của chiêu kiếm cũng tăng theo. Mân Xuyên Bá Đao giật mình nhận ra lính bị bao vây bởi muôn ngàn kiếm ảnh và hơi thép lạnh từng đợt vỗ vào da thịt làm lão rợn cả người. Việc đáng sợ nhất là lão không còn nhìn thấy Trương Thiên Sư đâu nữa, trước mặt chỉ toàn một mầu sáng bạc của kiếm quang.
Tần Cốc Lý tuyệt vọng múa tít bảo đạo công phá màn lưới thép trước mặt và song cước thì lùi nhanh. Nhưng đã quá muộn màng, Bá Đao nghe lồng ngực đau nhói và khí lực tiêu tan. Lão ngỡ ngàng khuỵu xuống, mắt trợn trừng kinh ngạc, nhìn Trương Thiên Sư như muốn hiểu rằng việc gì đã xây ra? Tần Cốc Lý mơ hồ nghe tiếng reo hò của hai ngàn công nhân mỏ rồi gục ngã.
Tư Đồ Sảng đứng lặng người tưởng nhớ đến cái chết thê thảm của song thân, nước mắt chảy thành giòng, miệng lẩm bẩm :
Nhưng người ngoài nhìn vào lại tưởng Trương Thiên Sư hối hận vì lỡ tay, đang tụng kinh siêu độ cho Tần Cốc Lý. Vì thế, Vũ Tri phủ bước đến an ủi :
Và lão cao giọng tuyên bố :
Giả Bạch Hồ cay đắng, móc văn tự ra trao cho Vũ tri phủ để lão điền tên chủ mới vào.
Cung chủ Hạo Thiên cung Lăng Song Tường vì chút nghĩa ái ân mà đến vuốt mắt cho Tần Cốc Lý rồi sai thủ hạ bồng xác lão về.
Phe Kỳ Lân bang vừa đi được một lúc thì ả nô tỳ, lúc nãy đứng cạnh Giả Đại tiểu thư, chạy ngược lại kề tai nói nhỏ với Trương Thiên Sư :
Ả dừng lại lấy hơi rồi nói tiếp :
Nói xong, Tiểu Thu bỏ chạy bằng một thân pháp rất nhanh nhẹn.
Tư Đồ Sảng nhìn theo bồi hồi suy nghĩ, biết rằng hai nhà Giả Khuất đang bị nhân vật thần bí và đáng sợ kia khống chế.
Nếu không thì sau cái chết của Mân Xuyên Bá Đao họ đã được tự do rồi. Chàng tự nhủ có ngày mình sẽ đến Trường Sa, gặp Giả Đan Quỳnh hỏi han cho cặn kẽ và tìm cách cứu hai nhà đại phú ấy thoát khỏi tai ương!
Tin tức về cái chết của Mân Xuyên Bá Đao nhanh như gió thoảng.
Mặc dù đám tang của lão rất đơn giản, sơ sài.Tất nhiên thanh danh của Giáo chủ Thiên Sư giáo cũng vang dội giang hồ. Ai nấy tấm tắc khen Trương Hàn Vũ là bậc Chân nhân ẩn mặt, khéo giấu diếm bản lãnh.
Việc này chỉ khiến cho Trương Thiền Sư thêm ngượng ngùng, ra sức khổ luyện pho Huyền Nguyên kiếm pháp. Bốn vị hộ pháp cũng bị Giáo chủ bắt buộc phải cùng ông ngày ngày luyện kiếm, không được xao nhãng, và người dạy họ chính là Tư Đồ Sảng.
Chàng tận tâm giảng giải từng bí quyết y như lúc Ly Giang Tiên Ông truyền thụ cho mình vậy. Nhờ thế mà pho kiếm trở nên dễ hiểu, dễ luyện hơn. Tuy nhiên, tùy theo căn cơ mà thành tựu của mỗi người mỗi khác.
Một mặt, Tư Đồ Sảng lược giản ba mươi sáu chiêu kiếm để dạy cho bọn đệ tử cấp dưới. Tuy uy lực về độ biến ảo kém đi song những chiêu ấy vẫn rất lợi hại, khả dĩ làm tăng tiến bản lãnh của những người tham luyện.
Điều đáng ngạc nhiên là Trương Trạm, thứ nam của Trương giáo chủ, lại là người tiến bộ nhanh nhất. Té ra gã có căn cơ của một kiếm sĩ và thích hợp với kinh kệ. bùa chú.
Thực ra, Thiên Sư giáo vốn không phải là một võ phái vì sở học tổ truyền của giòng họ Trương chỉ gồm các môn Thiên Độn kiếm pháp, Đại Đạo quyền pháp và Linh Bảo nội công tâm pháp.
Ba công phu này chẳng có điểm gì ưu việt, thua xa sở học của các phái khác như Thiếu Lâm, Võ Đang, Hoa Sơn, Toàn Chân. Nhưng trong Thiên Sư giáo lại có khá nhiều cao thủ bên ngoài gia nhập. Những người này vì hoàn cảnh gia đình, vì thất chí hoặc thất tình mà đi làm đạo sĩ.
Chính vì lẽ ấy mà Thiên Sư giáo chủ có mặt trong Hội đồng võ lâm.
Nay, Tư Đồ Sảng muốn tạo dựng cho Thiên Sư giáo một nền võ học riêng nên đã đem pho Du Long quyền pháp ra truyền thụ lại. Chàng làm như vậy cũng chẳng có gì sai, vì sư tổ chàng cũng là người của đạo giáo.
Du Long chân nhân Bậc Trung Tiêu là đệ tử duy nhất còn sót lại của Thanh Vi phái nhà Tống. Đến đời nhà Minh thì đạo phái này bị suy tàn.
Thái độ tích cực ấy của Tư Đồ Sảng đã khiến Trương Thiên Sư vô cùng cảm động. Ông hạ lệnh cho đệ tử trẻ trêи cả nước phải ra sức rèn luyện hai pho quyền kiếm mới. Nếu ai biếng nhác sẽ bị lộ áo mũ đạo sĩ.
Đầu tháng năm, pháp thể của Ly Giang Tiên Ông được rước về Long Hồ sơn đặt trong Bảo tháp. Do Tiên Ông không dặn dò gì trước lúc tọa hóa nên Tư Đồ Sảng cho rằng an táng ở đâu cũng vậy thôi. Lúc đầu, chàng còn xa lạ với Thiên Sư giáo nên đã tính đến chuyện đưa xác ân sư về Quế Lâm, nơi ông tu luyện.
Chàng đã cắm lại cây Tử Ngọc Thần Trâm lên búi tóc sư phụ vì nó đã theo Tiên Ông mấy chục năm.
Mấy hôm nay, Tư Đồ Sảng nằm mộng thấy Lăng Phi Tuyết hiện vế, cùng mình ân ái đắm say. Sau giấc Vu Sơn, Phi Tuyết mặc lại y phục định bỏ đi. Lúc ấy, Tư Đồ Sảng mới nhớ ra là nàng đã chết, liến giữ chặt lại và khóc nức nở.
Phi Tuyết nghiêm nghị trách :
Thϊế͙p͙ đã chết hẳn đâu mà tướng công khóc lóc! Chàng hãy mau đi Lạc Dương, tìm cho được Đảo Mệnh Linh Kỳ, lúc ấy phu thê sẽ đoàn tụ.
Nói xong, nàng tan ra thành luồng khói xanh rối biến mất. Tư Đồ Sảng đau đớn gọi vang :
Và chàng giật mình thức giấc! Phát hiện ra rằng đã thoát dương, sáng hôm sau, Tư Đồ Sảng ngượng ngùng thuật lại giấc mơ với Trương Thiên Sư và xin phép đi Lạc Dương.
Trương Hàn Vũ cau mày tư lự :
Tư Đồ Sâng gạt lệ nói :
Trước đây, Trương thiên Sư đã xem quẻ, chọn được ngày hai mươi tháng tám để khai quật Thúy Phong cốc đưa sáu bộ hài cốt vế Long Hồ sơn tổ chức tang ma.
Nhưng nay, Tư Đồ Sảng nằm mộng như thế khiến Trương giáo chủ rất phân vân. Ông liền lên đại điện Thượng Thanh cung thắp hương khấn vái Tam thanh, quỷ thần, rồi tiến hành phép bói Kim Tiền Bốc.
Dụng cụ bói toán của ông rất đơn giản, chi gồm một mai rùa để lật ngửa và hai đống tiến cổ. Hai đồng tiền này được nối với nhau bằng một sợi dây tơ đỏ dài độ ba gang. Khi bói, Thiên Sư chắp đôi sợi dây lại và thả hai đồng tiền vào mai rùa. Tiền đống luôn có hai mặt, giống nhau là chẵn, khác nhau là lẻ. Những lần chẵn lẻ ấy hợp thành hào, nhiều hào hợp thành quái, tức là quẻ. Sau đó, Trương Tiên Sư đối chiếu vội những hào từ, quái từ trong kinh dịch để xem Hung Cát. Ông là Giáo chủ nên thuộc lòng Kinh Dịch, chẳng cần phải mở sách ra. xem.
Bói xong, Trương Thiên Sư quay lại thư phòng, nói với Tư Đồ Sảng :
Tư Đồ Sảng nói lời cảm tạ rồi về phòng thu xếp hành lý đế lên đường. Mười ngày sau chàng đã đến thành Tín Dương và nghe được tin rằng hào kiệt võ lâm đang lũ lượt kéo đến vùng núi Đại Hồ Sơn, ở cách phía Nam huyện Đăng Phong bốn chục dặm.
Đại Hồ Sơn là một quần thể gồm tám ngọn núi thấp, sơn vực rất rộng, chung quanh là rừng già bạt ngàn, đầy ác thú và rắn rết nên hoang vu. Nhưng hai tháng nay, có một toán người đông độ hơn trăm đã xuất hiện tại chốn này à ra sức đào bới để tìm cái gì đó.
Việc ấy không thoát khỏi những cặp mắt tò mò của khách giang hồ.
Và có kẻ đã nhận ra cựu Minh chủ võ lâm Tư Đồ Xán trong thành Đăng Phong. Lão ta vào thành để mua những dụng cụ đào bới bằng sắt thép. Tuy Tư Đồ Xán giấu mặt bằng chiếc nón rộng vành xùm sụp song vẫn bị nhận diện.
Trêи thế gian có một hạng người rất dễ thương, họ không bao giờ giữ gì cho riêng mình cả. Khi biết được điều gì họ đem đi truyền bá khắp nơi, chia sẻ với tất cả mọi người và hài lòng vì sự rộng rãi ấy! Khổ thay, thế gian không hiểu lại gọi họ là kẻ ngồi lê đôi mách, thật là oan uổng!
Không phải chỉ nữ nhân mới mang đức tính ấy mà trong giới đàn ông cũng không thiếu. Họ ngồi đầy trong những trà lâu, nhấp nhỏm đợi chờ người nghe. Họ khác với bọn nam nhân uống rượu ở chỗ là không khi nào nói về chính mình.
Tư Đồ Xán may mắn gặp ngay một gã thuộc hạng người tốt bụng ấy nên chẳng mấy chốc cả phủ Hà Nam biết tin. Không ai nghi ngờ Loa Khẩu Tử nói láo cả vì gã đã thận trọng kiểm chứng bằng cách bám theo Tư Đồ Xán đến tận Đại Hồ Sơn.
Rối thì, vó ngựa phi nước đại cả ngày đêm, tai mắt của các bang hội lớn tại Hà Nam mau chóng mang tin ấy về nhà ở các phủ lân cận, hoặc xa hơn. Rốt cuộc hầu như cả võ lâm đều kéo đến Đại Hồ Sơn. Người ta cho rằng Tư Đồ Xán bao năm theo đuổi tìm kiếm di vật của Vạn Tùng lão nhân, có lẽ giờ đã tìm ra địa điểm chính xác.
Tự Đồ Sảng còn nghe được một tin quan trọng là việc Giả Bạch Hồ trở thành tân Bang chủ của Kỳ Lân bang.
Biết chắc Tây Môn Giới đã sớm có mặt ở Đại Hồ Sơn nên Tư Đồ Sảng ghé vào Cổ gia trang mà trọ nơi lữ quán. Chàng thức rất khuya vì thương nhớ người thân, và mối băn khoăn, không hiểu Đảo Mệnh Linh Kỳ có ở Đại Hồ Sơn hay không?
Vạn Tùng lão nhân vốn là một vị thiền sư, pháp liệu là Hành Tú, sao lại có thể dính dáng với một đạo sĩ là Hà Thù Chướng? Tư Đồ Sảng chỉ có thể tự an ủi rằng có thể cây Linh kỳ đã tình cờ lọt vào tay ông ta.
Cuối canh ba chàng mệt mỏi thϊế͙p͙ và mơ thấy Lăng Phi Hồng, Tư Đồ Sảng ôm nàng vào làng, nước mắt nhỏ như mưa. Chàng nghẹn ngào hỏi :
Phi Hồng dịu dàng đáp :
Tư Đồ Sảng sực nhớ đến Đảo Mệnh Linh Kỳ nên hỏi ngay :
Phi Hồng mỉm cười gật đầu và trườn lên, dùng đôi môi anh đào ngăn chặn những câu hỏi khác. Môi nàng ngọt lịm còn thân xác thì ấm nóng, thơm tho, chẳng khác gì lúc sinh thời.
Mĩ nhân chủ động mời gọi cuộc mây mưa, da thịt nồng nàn khiến Tư Đồ Sảng đắm chìm, chẳng còn biết đâu là hư, đâu là thực. Hết hiệp, Phi Hồng mặc lại y phục cho mình và trượng phu rồi biến mất.
Tư Đồ Sảng giật mình tỉnh giấc, cảm giác như trong phòng còn thoang thoảng mùi hương da thịt của ái thê. Chàng hoang mang ngồi suy nghĩ mãi, khi nghe tiếng mõ báo canh năm liền tắm gội rồi lên đường.
Những đêm kế tiếp, Phi Hồng và Phi Tuyết thay nhau hiện về cùng chàng ân ái nhưng không trả lời bất cứ câu hỏi nào.
Tư Đồ Sảng là người khoáng đạt, chấp nhận hạnh phúc ma quái ấy và quyết tâm vào Đại Hồ Sơn tìm cho được Đảo Mệnh Linh Kỳ.
Một mình dong ruổi, chàng chợt cảm thấy cô đơn, trống vắng vì thiếu Huyết Báo. Gã đã đi Trực Lô từ ngay sau lễ chúc thọ Cổ Quí Sinh để đón Mạc Chiêu Hương. Thúy Phong cốc đã bị tàn phá, gã sẽ đưa nàng về thẳng Long Hồ sơn.
Sáng ngày hai mươi bốn tháng năm, có một chàng kỵ sĩ áo lam xuất hiện ở bìa phía Nam khu rừng rậm Đại Hồ Sơn vùng rừng núi này nằm cách xa các trấn lớn và đường quan đạo nên vô cùng hoang vắng. Phía Bắc Đại Hồ Sơn là huyện thành Đăng Phong và phía Nam là trấn Tịch Châu. Nhưng cả hai đều cách Đại Hồ Sơn vài chục dặm.
Chung quanh đấy chỉ có những thôn nhỏ nghèo nàn, nhà cửa tềnh toàng, rách nát chẳng thể chứa hàng ngàn khách giang hồ. Song những kẻ có máu kinh doanh ở Tịch Châu và Đăng Phong đánh hơi được cơ hội kiếm tiền, mau mắn dựng lên mấy trăm túp lều vải để cho mướn. Đồng thời, quán xá cũng mọc đầy bìa rừng, phục vụ nhu cầu ăn uống và nhậu nhẹt của những người đi tìm kho báu. Thậm chí, cả kỹ viện ế ẩm ở Đăng Phong còn đưa cả lực lượng kỹ nữ đến Đại Hồ Sơn hành nghề.
Tất nhiên, không thể thiếu những cửa hàng bán các dụng cụ đào bới bằng sắt thép và những nơi giữ ngựa. Dân nghèo trong những thôn nhỏ gần đấy đã giành được công việc chăm sóc ngựa. Họ dùng dây, sào, cọc...tạo thành những chuồng ngựa tạm bợ để nhốt những con tuấn mã.
Bọn trẻ thì lo việc cắt cỏ cho ngựa ăn.
Kị sĩ áo lam vừa dừng cương là có người xúm lại xin được giữ con ngựa của chàng. Người ky sĩ tuổi tam tuần có gương mặt đầy đặn, phúc hậu ấy đã chọn một lão già lọm khọm và trao dây cương.
Và khi chàng đi vào khu quán xá thì lại bị bọn tiểu nhị, bọn cho mướn lều níu kéo. Chàng từ chối chỗ trọ vì đã quen ngủ trêи cành cây trong rừng. Tư Đồ sảng vốn sinh trưởng chốn núi rừng Cửu Tuấn, có thể ngủ rất say trêи một chạng ba mà chẳng bao giờ rơi xuống.
Biết mình đang bị Kỳ Lân bang và Thần Cung truy lùng nên Tư Đồ Sảng đã mang một trong những chiếc mặt nạ tinh xảo mà nghĩa phụ mới tặng cho. Lai lịc của chàng hiện tại là của một gã tên Công Tôn Kỳ, ba mươi hai tuổi, quê đất An Dương.
Tư Đồ Sảng bước vào một quán cơm, mái lợp lá song bàn ghế có vẻ sạch sẽ. Quần hùng đã kéo cả vào núi nên ngoài này vắng tanh chỉ cònlại những người buôn bán.
Đối diện quán cơm là một căn nhà lều rất lớn, mái và vách đều làm bằng vải sơn để chống chọi với những cơn mưa mùa hạ. Cửa lều buông rèm trúc, trêи có tấm ván gỗ chỉ bào qua loa, viết mấy chữ xiêu vẹo :
“Xuân Tình viện!”. Té ra đấy là một thanh lâu. Và từ trong ấy, một hán tứ áo xanh, tuổi tứ tuần bước ra, tay còn chưa thắt xong giải quần. Gã thấy Tư Đồ Sảng liền khựng lại mà quan sát. Lát sau gã mỉm cười, bước qua quán cơm, ngồi xuống trước mặt chàng. Hán tử ấy gọi một bình rượu nhỏ và đĩa lạc rang. Chờ tên tiểu nhị đi khỏi, gã hỏi nhỏ :
Từ Đồ Sảng gật đầu đáp :
Chàng đã nhận ra hán tử từ trước. Gã chính là đệ tử thứ năm của nghĩa phụ chàng. Bảy gã trong Thất Tinh Hình Sứ đều là trẻ mồ côi, đầu đường xó chợ. Họ được Tây Môn Giới thu nạp, nuôi dưỡng và dạy dỗ từ lúc còn niên thiếu nên rất trung thành với sư phụ! Bảy gã đã lấy họ của ông và đặt tên theo thứ tự từ Nhất đến Thất.
Sau khi Tư Đồ Sảng giết chết Hí Nhân cư sĩ Cổ Quí Sinh, chàng đã sang mở ngôi mộ của Cổ Lão Thái để cứu Thất Tinh ra. Việc này càng khiến họ yêu mến và tôn kính chàng như một Thiếu chủ.
Nhắc lại Tây Môn Ngũ nghe Tư Đồ Sảng gọi đúng tên thi vô cùng hoan hỉ. Gã thở phào nói :
Tư Đồ Sảng mỉm cười hỏi lại :
Tây Môn Ngũ vội tu ừng ực hết bình rượu rồi nói :
Sau ba khắc xuyên rừng, vượt suối Tây Môn Ngũ đã đưa Tư Đồ Sảng đến vị trí mà Tích Dịch Quỷ đang đứng.
Tám ngọn núi của rặng Đại Hồ Sơn chia làm hai hàng dọc đối diện nhau, chạy theo hướng Bắc Nam, dài độ sáu dặm kẹp ở giữa chúng là một thung lũng toàn sỏi đá khô cằn nên cây cối thưa thớt, không thể mọc thành rừng như vùng đất chung quanh. Khoảng tiếp giáp giữa hai chân núi cũng tương tự như thế. Và đặc biệt là mạn cực Bắc Đại Hồ Sơn bị chắ ngang bởi một khe sâu hun hút.
Có lẽ hàng trăm vạn năm trước, một cơn địa chấn đã làm mặt đất khu vực ấy thụt xuống, tạo thành một vực thẳm vĩ đại, rộng độ nửa dặm và dài chừng hai dặm.
Chung quanh miệng vực là rừng gỗ cổ thụ, ở mặt Nam tiếp giáp thung lũng đá và hai ngọn núi cực Bắc của rặng Đại Hồ.
Đất xốp và thảm thực vật của những cánh rừng đã tích tụ nước mưa, tạo thành hàng trăm gióng suối nhỏ chảy xuống vực thẳm. Những thác nước ấy tuôn đổ quanh năm nên lòng vực luôn mịt mù hơi nước khiến người đứng bên trêи không thể nhìn thấy đáy, không ước lượng được chiều sầu của nó. Tuy nhiên, hơi nước và ánh dương quang đã tạo nên những mống cầu vồng diễm lệ, huyền ảo phi thường, cùng với những giòng thác, hợp thành phong cảnh kỳ tuyệt, hiếm có.
Nếu Đại Hồ Sơn không bị ngăn cách với thế giới bên ngoài bằng cánh rừng rậm đầy thú dữ, độc vật và lam sơn chướng khí, thi khe núi này đã là một danh thắng của đất Hà Nam tự lâu rồi.
Nhưng hiện tại thì cảnh đẹp ấy hoàn toàn bị bọn hào kiệt võ lâm thờ ơ lãnh đạm. Họ đến đây vì lòng tham lam, muốn tìm thấy di họa của Vạn Tỳ lão nhân để trở thành vô địch. Hoặc chí ít cũng là vì lòng hiếu kỳ, muốn biết ai là người diễm phúc.
Thực ra, nếu có kẻ tìm được bí kíp võ công của Vạn Tỳ lão nhân thì nơi đây sẽ biến thành một chiến trường khốc liệt, xương máu chất chồng. Nhưng hiện tại thì ai nấy đều cắm cúi đào xới những địa điểm mà họ cho rằng khả nghi và mắt thì lấm lét liếc quanh dòm ngó công việc của những người bên cạnh.
Tuy nhiên, giả như có phát hiện ra điều gì họ cũng sẽ lặng câm, tập hợp đầy đủ bằng hữu, anh em rồi mới dám khai quật tiếp. Kẻ cô thế sẽ không bao giờ mang nổi bảo vật ra khỏi chốn này.
Hiện tại chỉ mới có bốn phái lớn là Thiếu Lâm, Võ Đang, Hoa Sơn, Cái bang hiện diện ở đây, với tư cách Hội đồng võ lâm, cố giữ cho cục diện quân bình, không xảy ra tương sát.
Nhưng mai mốt, khi các bang hội hùng mạnh và bá đạo như Hải Hoa bang, Hạo Thiên cung, Kỳ Lân bang xuất hiến thì đạo lý của kẻ mạnh sẽ thống trị. May mà họ ở xa nên chưa đến kịp.
Đại diện các phái Bạch Đạo gồm: Giám Vân Thiền sư, Thủ tòa La Hán đường chùa Thiếu Lâm, Hắc Bì Cái, Đàm Vân Tử và Mộc chân nhân Chưởng môn phái Hoa Sơn. Bên cạnh bốn đại nhân vật này còn có hai người khá nổi tiếng nữa, đó là Trại Tôn Tử Hồ sĩ Tuệ và Hí Nhân cư sĩ Cổ Quí Sinh tức Tây Môn Giới.
Địa điểm mà sáu người này đang đứng chính là nơi mà cựu Minh chủ võ lâm Tư Đồ Xán đang đốc thúc hơn trăm thủ hạ đào bới cật lực.
Sau nửa tháng thăm dò, Trại Tôn Tử đã khẳng định lối vào Vạn Tùng động ở vách đá chân núi hướng Nam của ngọn cực Bắc mé Đông, một trong hai ngọn tiếp giáp với vực thẳm.
Sự xuất hiện ồ ạt của quần hùng đã khiến Phúc Châu Tư Đồ Xán vô cùng cay đắng, hối hận. Ông thầm nguyền rủa tổ tông mười tám đời cái gã đã nhận ra ông ở Đăng Phong và loan báo cho cả thiên hạ biết. Và nếu ông không tìm ra Vạn Tùng động trước khi bọn Đại ma đầu như Nam Hải Tiên Ông, Hạo Thiên cung chủ đến đây, thì công lao tìm kiếm mấy chục năm trở thành công cốc. Và chưa chắc ông đã toàn mạng khi bảo vệ thành quả của mình.
Tuy được bốn phái Bạch Đạo công nhận quyền ưu tiên song việc ấy cũng chẳng ích gì cho Tư Đồ Xán. Võ lâm là nơi cá lớn nuốt cá bé và kẻ mạnh hơn luôn có lý.Nhưng Tư Đồ Xán đã dốc hết tài sản vào canh bạc này, quyết chẳng để người khắc phỗng tay trêи. Hơn năm qua, một mặt, ông nghiện cứa tấm họa đồ bí ẩn đã lấy được trong một động đá ở núi Long Môn, mặt khác, ông khổ công đào tạo hai trăm gã đệ tử trở thành những kiếm thủ tinh nhuệ. Tư Đồ Xán đã chuẩn bị lực lượng chờ ngày hôm nay.
Tây Môn Giới rất quen thuộc với vóc dáng của Tư Đồ Sảng, cũng như dung mạo giả của chàng, liền rảo bước đi ra, không chờ con nuôi đến nơi.
Lão mừng rỡ hỏi :
Tư Đồ Sảng gật đầu và nói :
Tây Môn Giới liến chỉ khóm cây râm mát gần đấy. Hai cha con ngồi xuống chuyện trò, Tây Môn Ngũ thì cảnh giới phía ngoài.
Tư Đồ Sảng thẹn thùng thuật hai những giấc mơ ma mị và nồng thắm với oan hồn của hai người vợ đã chết.
Tây Môn Giới giật mình, nắm cổ tay chàng thăm mạch. Lát sau, lão nhận xét :
Lão đưa tay áo lau nước mắt, rồi nghiến răng nói :
Bảy người liệu có quá ít chặng? Tư Đồ Sảng đã tự hỏi như thế.
Nhưng Tây Môn Giới đã trấn an chàng :
Tư Đồ Sảng thán phục và nói lảng sang chuyện khác :
Tây Môn Giới giật mình, suy nghĩ một lúc rồi bác bỏ :
Tư Đồ Sảng ngượng ngùng nói :
Tây Môn Giới không nói gì thêm, cau mày, nhăn trán suy nghĩ rất lung rồi bỗng nhiên vỗ đùi tẩm bẩm :
Và lão phấn khởi bảo Tư Đồ Sảng :
Nói đến đây, Tây Môn Giới phát hiện giả thiết của mình cũng khá mơ hồ, liền cười bảo :
Hai cha con chuyện trò thêm một lúc rồi cùng đi đến chỗ bốn phái Bạch Đạo. Họ đang quây quần ngồi uống trà trêи một tấm vải lều lớn, dưới tán cây rậm rạp, râm mát. Trại Tôn Tử Hồ Sĩ Tuệ đã ra thay ca nên Tư Đồ Xán có thể đàm đạo, chiêu đãi bốn vị cao nhân.
Hí Nhân cư sĩ Cổ Quí Sinh tức Tây Môn Giới, vui vẻ giới thiệu chàng trai áo lam với mọi người :
Năm người kia tỏ vẻ ngạc nhiên vì chưa từng nghe nói đến việc này!
Mộc chân nhân, chưởng môn phái Hoa Sơn vuốt râu cười bảo :
Tướng mạo y không có gì xuất sắc nhưng nhãn thần oai nghiêm, chắc bản lãnh phải rất cao cường.
Tây Môn Giới vô cùng thán phục nhãn quang sắc bén của đối phương, vuốt râu đáp :
Tư Đồ Sảng ôm quyền thi lễ với các lão nhân rồi ngồi xuống cạnh nghĩa phụ, song hơi lui ra phía sau một chút vì thủ lễ.
Chàng âm thầm quan sát Tư Đồ Xán mà nhớ phụ thân vô hạn.
Chàng bâng khuâng tự hỏi mình sẽ làm gì khi người chú ruột tham lam, tàn nhẫn kia gặp nạn. Chậm nhất là ngày mốt bọn ác ma sẽ đến đây và ra tay chiếm đoạt công lao của Tư Đồ Xán.
Chưa tìm ra câu hỏi thì Tư Đồ Sảng bỗng nghe Hắc Bì Cái hỏi Phúc Châu Thần Kiếm :
Tư Đồ Xán thoáng biến sắc đáp :
Tư Đồ Sảng nghe lão vu khống cha mình, lửa giận bừng lên song cố nhẫn nhịn. Chàng bàng hoàng chợt nhận ra mình chưa bao giờ nghĩ đến việc về thăm bà nội. Té ra bà vẫn còn sống dù tuổi đã chín mươi.