Trong suốt hai ngày trời, Kiếm Vân ngụp lặn trong vòng tay của bốn vị phu nhân và vui đùa với tiểu hài tử Kiếm Hồng.
Sáng ngày thứ ba, trong bữa điểm tâm, chàng bàn với Tô Tháo việc xuống Quảng Đông, đem hài cốt ba vị nghĩa đệ về quê hương của họ.
Tô Tháo bùi ngùi bảo :
Kiếm Vân buồn bã nói :
Viên Long lúc này đã được rút về Tổng đàn, giúp Cầu Nhiệm Cái điều hành mạng lưới trinh sát. Gã chạy vào báo tin :
Kiếm Vân đoán rằng đó là thân nhân của Thiết Quyền, đến hỏi thăm tin tức, chàng gật đầu :
Liễu mẫu thở dài :
Truy Phong Cái đưa khách vào đến, lão to lớn và có bộ râu che kín gần hết khuôn mặt.
Phụng Hương là thánh thủ trong nghề hóa trang, lập tức nhận ra lão mang râu giả liền nói nhỏ với Kiếm Vân, bảo chàng lưu ý đề phòng.
Lão đứng nhìn mọi người với ánh mắt thân thiết, không nói một lời. Kiếm Vân hắng giọng :
Lão nhân ngửa cổ cười khanh khách, giọng cười vô cùng quen thuộc, đưa tay gỡ bộ râu, để lộ dung mạo thật. Mọi người bàng hoàng dụi mắt, không còn tin vào nhãn lực của mình. Tô Tháo thảng thốt gọi lớn :
Quả đúng là hắn, người tưởng đã chết từ mấy tháng trước. Gã sụp xuống ra mắt :
Kiếm Vân không kềm được hân hoan, rời ghế bước đến ôm gã vào lòng khóc vùi, Tô Tháo cũng vậy, lão cười như điên cuồng :
Kiếm Vân dắt gã vào bàn, ngồi cạnh Cổ mẫu, bà run rẩy đưa tay vuốt ve gã, cười ra nước mắt :
Tư Mã bang chủ rót cho gã một chung rượu, cười khà khà hỏi :
Thiết Quyền cười hiền hòa đáp :
Ai nấy nghe xong đều tạ ơn trời đất, cười nói vui vẻ.
Thiết Quyền nói tiếp :
Lão trao cho Kiếm Vân một mảnh da dê lớn bằng hai bàn tay, trên có vẻ những hình tròn, hình tam giác rất khó hiểu. Còn văn tự thì rõ ràng không phải chữ Hán.
Thanh Hoa công chúa ngồi cạnh chàng tò mò liếc mắt nhìn xem, giật mình nói :
Tô Tháo bật cười :
Trưa hôm đó, bọn Kiếm Vân nhận được thiệp mời dự lễ thượng thọ tám mươi mốt của Bạch Hổ lão nhân tổ chức vào ngày hai mươi tám tháng ba, tại Tổng đàn võ lâm.
Mọi người chuẩn bị lễ vật lên đường. Bạch Hổ lão nhân là tam đệ của Võ Lâm Chí Tôn, nên Nan Đề lão nhân là nhị ca đương nhiên phải có mặt. Kiếm Vân mừng rỡ ra mắt ân sư. Dường như lão cũng có ý muốn tìm gặp Kiếm Vân. Họ là người nhà nên đến trước hai hôm. Lão gọi chàng ra vườn hoa đàm đạo. Thấy sư phụ già yếu hơn trước, chàng xúc động thưa :
Lão mỉm cười đáp :
Kiếm Vân là người nhân hậu, nghe nói lê thứ sắp lâm vào đại họa, chàng buồn rầu nói :
Chàng chợt nhớ đến tấm bản đồ da dê, vội chạy vào phòng mở bọc hành lý lấy ra trao cho sư phụ. Nan Đề lão nhân xem kỹ, cao hứng bảo :
Kiếm Vân vui mừng khôn xiết hăm hở nói :
Nan Đề lão nhân gật đầu :
Kiếm Vân sửng sốt lẩm bẩm :
Nan Đề lão nhân liền biểu diễn cho chàng xem, đôi chân lão vun vút đảo lộn, những cú đá hiểm hóc liên miên bất tuyệt.
Kiếm Vân tròn mắt thán phục vì chính chàng cũng chẳng biết giải phá bằng cách nào.
Hết chiêu, lão nhân cười bảo :
Lão bèn giảng giải, hướng dẫn cho chàng cách luyện tập. Kiếm Vân đã thuộc lòng khẩu quyết và nhờ thiên bẩm hiếm có, chỉ một canh giờ chàng đã thành công.
Sau lễ khánh thọ, chàng mời lão nhân về Lạc Dương. Đầu tháng tư, Kiếm Vân đem theo Tô Tháo, Thường Luyện và Viên Long lên đường ra vùng quan tái. Lộ trình của họ phải qua Tây An. Lan Châu, cắt ngang địa phận các tỉnh Thiểm Tây, Cam Túc, Ninh Hạ để đến hồ Sách Khắc, chỉ cách trường thành chỉ có vài chục dặm.
Đã vào đầu mùa hạ, mặt trời chói chang, nắng gắt khiến người ngựa đều mau chóng mệt mỏi, cước trình chậm chạp. Hơn mười ngày sau bọn chàng mới về đến được Lan Châu.
Thủ phủ đất Lan Châu rất sầm uất, phồn thịnh vì nằm ngang ngã ba sông, nơi Vị Thủy hợp lưu với Hoàng Hà, đây còn là trục lộ chính giao thông với Tây Vực qua ải Ngọc Môn quan.
Đường trường thành được lát đá để bụi không bốc lên dưới vó của hàng trăm đoàn ngựa và lạc đà qua lại suốt ngày.
Bốn người vào Lan Châu đại lữ điếm nghỉ ngơi. Kiếm Vân từ ngày vào sanh ra tử chiến đấu với tà ma, không còn bận tâm về vấn đề tiền bạc nữa.
Gia lẽ, trong cương vị một Phò mã, chàng không thể keo kiệt như ngày trước. Kiếm Vân phó mặc việc may sắm cho các phu nhân. Họ biết tính chàng nên không mua những y phục cầu kỳ, sặc sỡ. Chàng có thể bỏ ra hàng vạn lượng để cứu giúp những người khốn khó, mà chẳng bao giờ tự mình gọi một món ăn đắt tiền. Nhưng người người cùng đi với chàng thì lại khác, họ yêu thương, mến mộ chàng nên đã cung phụng những tiện nghi tốt nhất. Ngược lại, chàng cũng hài lòng khi thấy huynh đệ được ăn ngon.
Tắm gội xong, Viên Long lập tức tìm đến Phân đà Cái bang ở Lan Châu xem xét sự vụ rồi hỏi thăm động tĩnh trong vùng.
Ba người đợi gã trong phòng ăn của lữ điếm. Lát sau, họ Viên trở lại báo cáo :
Kiếm Vân trầm ngâm bảo :
Viên Long trở ra cửa, dặn dò tên hóa tử đang ngồi trước cửa lữ điếm rồi quay lại bàn ăn uống với mọi người.
Nửa canh giờ sau, Phan Hùng bước vào kính cẩn thi lể :
Chàng mời lão ngồi ăn chung, tàn tiệc mới nói :
Lục Chỉ Cái đi rồi, Tô Tháo cười hỏi :
Kiếm Vân ngao ngán lắc đầu :
Sáng hôm sau, bốn người lại lên đường. Họ đi dọc theo Hoàng Hà để đến Ngân Xuyên, thủ phủ đất Tây Hạ, nằm cạnh dòng sông Hán Thủy.
Tây Hạ, còn gọi là Ninh Hạ, địa hình hiểm trở, ba phần tư là núi và cao nguyên, từ ngàn xưa vẫn thuộc giống người Hồi. Dân chúng quen nghề chăn thả gia súc trên đồng cỏ, loài cừu rất thích hợp với khí hậu của vùng phía Bắc, nơi đây, dẫu cuối tháng năm cũng vẫn còn lạnh giá. Ngoài người Hồi còn có khá nhiều dân Hán, Mãn, Mông đến đây sinh cơ lập nghiệp.
Đất đai tuy khô cằn, nhưng lại ở đoạn thượng nguồn Hoàng Hà nên không bị cảnh lụt lội hàng năm. Nhiều người Hán đã quá chán ngán và ám ảnh vỡ đê nên chọn Ninh Hạ làm quê hương. Cũng như Lan Châu, Ngân Xuyên nằm cạnh ngã ba sông, nơi dòng Thanh Thủy đổ vào Hoàng Hà. Đệ tử Cái bang ở trong thành chỉ có độ hai mươi người, do dân Hồi không thích bố thí cho những người không cùng tôn giáo với mình. Vì vậy, chẳng hề có trụ sợ Phân đà. Tối đến, anh em tụ tập trong một ngôi nhà hoang ở ngoại thành. Nơi đây rất điêu tàn mái ngói chỗ còn, chỗ mất, tường lỡ, cột xiêu. Kiếm Vân phủ dụ bọn họ rồi tặng ngàn lượng bạc để cứu tế và sửa chữa chỗ ở.
Người có địa vị cao nhất ở đây là một lão khất cái ba túi. Lão từng lang bạt khắp vùng Tây Hạ, nên đã chỉ dẫn cặn kẽ đường đi đến hồ Sách Khắc.
Sau hơn hai mươi ngày gian khổ, bốn người mới đến được mục tiêu. Họ vào trấn Sách Khắc tìm nơi nghỉ ngơi.
Quả đúng như lời truyền tụng, đã giữa tháng năm mà vùng này vẫn còn hiu hiu rét.
May thay, trong trấn có một khách điếm của người Hán, dù tồi tàn nhưng thức ăn vẫn mang hương vị Trung Thổ.
Từ khách điếm có thể nhìn thấy rõ rặng núi cao hơn trăm trượng ở phía Bắc hồ.
Nan Đề lão nhân đã khẳng định kho tàng được giấu trong rặng núi ấy.
Mờ sáng, bốn người mang theo lương khô, dây chão đi về hướng hồ Sách Khắc. Đây là chiếc hồ lớn nhất Tây Hạ, chu vi rộng đến mấy chục dặm, ở cuối sông Sách Giang chảy từ cao nguyên Thanh Hải đến.
Bọn Kiếm Vân đi men theo bờ Đông của hồ để đến rặng Thạch Sơn. Dãy núi không cao lắm nhưng gồm nhiều ngọn nằm kề nhau. Đỉnh trơ trọi toàn đá nhưng sườn núi có rừng cây rậm rạp, dây leo chằng chịt.
Chàng xem lại họa đồ, các định mục tiêu là sơn cốc nằm ở phía Tây đỉnh cao nhất.
Còn cách chừng vài chục trượng, Kiếm Vân kinh ngạc nhận ra tiếng cuốc xẻng bổ vào đất đá và tiếng người xôn xao vọng lại.
Chàng băng mình lên trước thấy trước mặt mình là một hồ nước đường kính chừng mười trượng, cách đó không xa là một vách núi thẳng đứng đang bị mấy trăm người đào bới. Cạnh hồ là dãy nhà tranh chứng tỏ họ đã đến được nhiều ngày.
Bốn người lướt đến núp sau bụi rậm ở bờ hồ phía Nam dõi mắt quan sát.
Năm người y phục chỉnh tề đang đứng bàn bạc, đốc thúc công nhân, trông vóc dáng rất quen thuộc.
Quanh hồ có rất nhiều cây cỏ nên Kiếm Vân luồn sau đấy mà đến gần hơn. Chỉ có lão râu dài chính giữa là xa lạ, còn lại đều là người quen cũ. Bán Diện Thần Ông, Xà Yết bà bà, Xích Hỏa lão nhân, Quân Tử Kiếm. Họ đối với lão đạo nhân lạ mặt rất kính cẩn. Đại Lực Ma Quân vắt óc suy nghĩ rồi nói nhỏ :
Kiếm Vân hỏi lại bản lãnh họ Vu thế nào?
Tô Tháo thở dài :
Thiết Quyền nhăn nhó :
Kiếm Vân gật đầu, lắng nghe bọn chúng sàng lọc. Xích Hỏa lão nhân hỏi lão râu dài :
Vu Hội cười khanh khách bảo :
Tô Tháo thì thầm :
Tam Nhãn Tú Sĩ mở lời :
Thiết Quyền lẩm bẩm :
Kiếm Vân bảo Viên Long :
Viên Long cười đáp :
Bốn người quay lại, chỉ vài chục trượng đã đến chỗ ấy.
Viên Long bẻ cành lá quyét dọn sạch sẽ nền hang rồi mời ba người vào.
Gã lấy thức ăn bày ra, hai con gà luộc và một đùi dê nướng cũng vừa với túi rượu mười cân.
Cả bọn vừa ăn vừa bàn bạc. Kiếm Vân hỏi họ Tô Tháo :
Đại Lực Ma Quân cười đáp :
Một mưu kế hiện ra trong đầu chàng.
Canh ba đêm ấy, bốn người mò lại gần khu khai quật. Trằng rằm sáng vằng vặc soi tỏ mặt hồ. Cạnh đấy lại có sáu tên thủ hạ Xích Hỏa giáo đang quây quần ben đống lửa để canh gác.
Trong điều kiện này không thể nào xuống hồ được. Trăng lơ lửng treo trên đầu vách núi nên chân vách tối om. Kiếm Vân dặn mọi người chờ đợi rồi lướt nhanh đến vách đá. Chàng chọn một phiến đá có mặt phẳng, vận công viết lên mấy chữ, rồi dùng nội lực ấn sâu vào vách. Sáng mai, khi bọn võ sĩ đào bới, tất sẽ làm chấn động và phiến đá này sẽ hở ra.
Xong việc, cả bọn kéo nhau về hang nghỉ ngơi. Đầu giờ Thìn sáng hôm sau, họ lại có mặt trong đám bụi cây bên hồ nước, chờ xem diễn biến.
Quả nhiên, sau vài nhát cuốc, phiến đá long ra rơi xuống chân một hán tử. Hắn nhanh nhẹn nhảy lùi, nhận ra tren mặt đá có khắc chữ, mừng rỡ kêu lên :
Bọn Trương Tu, Tam Nhãn phấn khởi lướt đến. Vu Hội đọc dòng chữ: “Vu lão! Ngươi đã chậm chân hơn lão phu một bước rồi!”
Ở dưới thụ danh Thần Cơ Tử. Kiếm Vân thông thuộc nét chữ của ân sư nên nhái theo rất đúng. Trường Tu đại pháp sư gầm lên đau đớn :
Bán Diện Thần Ông nhìn vách đá thắc mắc :
Vu Hội tỉnh ngộ :
Quân Tử Kiếm Hà Tuyên Châu thở dài :
Vu lão cười khanh khách :
Dứt lời, lão rút kiếm gỗ chỉ lên trời lâm râm niệm chú. Lát sau, cả một vùng núi rừng tối sầm lại, cát bay đá chạy mịt mù. Lão bốc mấy nắm đậu trong túi vải đeo bên hông rải vào không gian hàng ngàn ma ảnh dật dờ tỏa đi tứ hướng.
Lúc này bọn Kiếm Vân đã chạy cả về hang ẩn náu. Chàng không ngờ lão ma giữa thanh thiên bạch nhật lại thi triển được tà pháp nên trong lòng rất hối hận, lo cho ba người kia.
Chợt nhớ đến thanh Ngư Trường kiếm là vật tùy thân của Minh Thái Tổ hoàng đế, chàng đem ra treo trên sợi dây trước cửa động.
Nào ngờ lại vô cùng diệu dụng, hồn ma bóng quế bay ngang qua đều không dám dừng lại mà còn tránh xa.
Một khắc sau, trời quang đảng trở lại, bốn người lại chạy ra núp ở ven bờ xem thử.
Trường Tu đại pháp sư tra kiếm vào vỏ, mở mắt lẩm bẩm :
Xích Hỏa lão nhân buột miệng :
Vu Hội đồng ý. Đồ Phục bảo bọn công nhân khoét mười lỗ trên vách. Lão trộn những trái cầu màu đen vào đấy rồi cho phát hỏa. Vách đá bị bóc một lớp sâu nửa trượng mà vẫn không thấy cửa vào, làm thêm hai lần nữa cũng chẳng thấy gì, cả bọn thất vọng đến ngây người.
Vu Hội nói :
Bốn người kia cũng đã quá chán cảnh nằm sương, gội sương gió nơi vùng rừng núi cô tịnh này, nên cùng đồng thanh tán thành.
Chờ bọn tà ma đi thật xa, bọn Kiếm Vân mới dám ra tay. Chàng buộc dây chão vào bụng, lao mình xuống hồ. Ra đến trung tâm, chàng hít một hơi dài lặn xuống. Đáy hồ phủ một lớp bùn dầy đặc vì năm tháng. Chàng nhắm mắt dùng tay khoét lớp bùn, phải nửa trượng mới chạm một thạch bàn vuông vức, bằng phẳng.
Chàng trồi lên đổi hơi rồi trở xuống, thọc tay vào lỗ hổng trên mặt đá, vận toàn lực kéo lên. Cửa mở ra, để lộ một hang ngầm, chàng chui vào bơi theo thủy đạo. Nền hang cao dần, cuối cùng là bậc tam cấp đi lên một thạch động rộng rãi.
Chàng ước đoán, thạch động này nằm dưới vách chân núi phía Đông, dù có phá tan phần trên cũng chẳng tìm ra.
Dười ánh hỏa tập, trước mặt chàng có đến mấy chục bộ xương người nằm rải rác trên nền hang. Chắc họ là những người đã xây dựng kho tàng này?
Cạnh cửa thạch thất là hai đồng nhân tay cầm chùy. Chàng nhặt một khúc xương đùi quẳng vào cánh cửa, cơ quan phát động, hai đồng nhân giáng chùy vun vút, lát sau mới dừng lại.
Chàng bước lên vài bước, còn cách chừng hơn nửa trượng thì đồng nhân lại cử động.
Kiếm Vân lùi lại, chờ chúng đứng im mới tung mình lăn xuống, vung Ngư Trường kiếm chặt bay hai cánh tay cầm chùy, tung cước đá chúng ngã lăn ra.
Chàng hạ thân xuống, nhìn khung cửa có hai cánh bằng đá. Chàng lùi lại đúng một trượng, vỗ hai đạo chưởng, đẩy bật chúng ta.
Từ trong, hàng vạn cây độc châm bắn ra như bảo táp. Dù đã tung mình lên cao, không có bảo y che chở, chàng khó mà toàn mạng với những mũi kim tẩm độc xanh lè.
Chàng lại gần, vẫy thêm một loạt chưởng nữa để xua đuổi làn không khí ẩm mốc trong thạch thất ra.
Ánh sáng yếu ớt của hỏa tập làm sáng rực hàng ngàn viên Dạ Minh châu gắn trên vách đá, ngọc ngà, châu báu, vàng thoi chất đầy trong những rương gỗ.
Kiếm Vân đổ đầy châu báu vào bốn túi vải mang theo rồi rời thạch thất. Hai trăm cân châu ngọc này trị giá đến mấy trăm vạn lượng vàng, đủ đế cứu tế bách tính Trung Nguyên.
Chàng cột các túi vào đầu dây giật mạnh, rồi bám luôn vào đó. Bọn Tô Tháo ra sức kéo.
Đến đáy hờ, chàng thả cho túi ngọc lên trước, đưa thạch bàn vào chỗ cũ, khỏa bùn lấp kín lại, trồi lên mặt hồ.
Bốn người không quay lại trấn Sách Khắc mà đi thẳng về hướng Vạn Lý Trường Thành. Họ sẽ đi dọc theo chân tường đến Ngọc Môn quan, để về Trung Nguyên bằng đường Lan Châu.
Mỗi người một túi nên chẳng hề gây nghi ngờ cho ai cả. Hai ngày sau, họ mới đến được Ngọc Môn quan, nghỉ ngơi một ngày, cải trang thành các lái buôn rồi mua tuấn mã, nhập vào các đoàn khách thương hồ, ung dung dong ruổi trên đường quan đạo.
Họ đã xóa hết mọi dấu vết trong hang và bờ hồ, nhưng vẫn còn bốn con ngựa ở khách điếm, trước sau gì bọn Trường Tu đại pháp sư cũng phát giác ra, nhưng lão cũng không thể biết rằng bọn chàng đã lấy đi một nửa kho báu!