Khi còn ở cô nhi viện, Tiểu Hồ đã nghe về Bảy Người Mạnh Nhất. Cô bé nhớ rõ về họ như nhớ về đoạn hành lang cấm túc với những con nhện.
Cô nhi viện không quá thiếu thốn. Nó vẫn có sân chơi cho lũ trẻ chạy nhảy, có máy chiếu ba chiều phát truyền hình trước giờ đi ngủ, thi thoảng tổ chức dã ngoại. Nhưng chúng không cuốn hút cô bé Tiểu Hồ sáu tuổi. Mỗi sáng, cô bé dậy thật sớm để nhận việc quét dọn nhà ăn cô nhi viện. Năng nổ không phải lý do và cũng chẳng phải Tiểu Hồ muốn ghi điểm với các mẹ nuôi, cô bé mong chờ người giao sữa.
Giống Tiểu Hồ, người giao sữa với chiếc phi thuyền vận tải cũ kĩ loang lổ nước sơn tới đây mỗi sáng, đẩy xe thùng mang những chai thủy tinh đựng sữa nóng vào nhà ăn. Một người đàn ông trung tuổi. Nhưng ông ta không đội mũ trắng, mặc áo trắng hay đeo chiếc tạp dề bốc mùi ngòn ngọt vương lại từ nồi quấy sữa. Người đàn ông đó to lớn, da ngăm, ánh mắt bặm trợn, râu lờm xờm bọc bộ hàm máy móc thường rít tiếng nhai nghiến rôm rốp, cánh tay xăm hình thanh kiếm với ba lá cờ phủ quanh. Không bà mẹ nuôi hay đứa trẻ nào dám lại gần ông ta. Giao hàng xong, người giao sữa đi ngay. Nhưng thỉnh thoảng ông ta ở lại, mua một phần ăn sáng rồi thu lu dáng vẻ to lớn của mình ở một góc như con gấu thưởng thức mật ong.
Khác mọi người, Tiểu Hồ tò mò nhiều hơn là sợ. Cô bé thường lân la gần người giao sữa, cốt nhìn cho rõ dấu xăm trên tay ông ta. Ánh mắt con trẻ thì ngây thơ lộ liễu. Một ngày nọ, người đàn ông ngẩng đầu nói với cô bé, giọng rè rè thiếu tự nhiên:
“Dấu hiệu của Tiểu Đoàn Kiếm Sắt. Chỉ người của Tiểu Đoàn mới có dấu này. Ta từng ở đó, giờ nghỉ rồi. Bé con hết thắc mắc rồi chứ?”
Tiểu Hồ hơi sợ. Cô bé nghe bọn trẻ kháo nhau rằng người giao sữa chỉ ăn sắt vụn, đinh vít, vậy nên bộ hàm máy móc thường rít những tiếng ghê rợn. Nhưng Tiểu Hồ chỉ thấy một đĩa bánh bột mì, khoai tây nghiền, ít hành tây và trà thiết mộc. Không đinh vít, không sắt vụn. Người giao sữa gõ gõ vào bộ hàm:
“Lựu đạn nổ, cái hàm của ta đi tong. Bé con không thể nhai, nói hoặc uống nếu thiếu nửa hàm dưới. Ta giải ngũ, nhận một mớ tiền trợ cấp cùng cái hàm máy này. Nó cũ rồi nhưng ta chưa có tiền thay.”
Cô bé Tiểu Hồ bớt sợ hơn. Đó là những câu thoại khởi đầu cho một mối quan hệ kéo dài hai năm sau đó. Họ – một lớn tuổi, một nhóc tì – chỉ gặp nhau vào sáng sớm, có lúc chạm mặt lưới qua, có khi trò chuyện nếu người giao sữa ở lại ăn sáng. Tiểu Hồ thích người đàn ông đó. Ông ta luôn mang đến nhiều câu chuyện kỳ vĩ lớn lao vượt xa khỏi bốn bức tường cô nhi viện, tới nỗi đoạn hành lang cấm túc cùng tơ nhện cũng không thể ngăn lại. Mới sáu tuổi nhưng Tiểu Hồ đã biết Tiểu Đoàn Kiếm Sắt, những cuộc chiến triền miên giữa Phi Thiên và Lưu Vân, những truyền thuyết ly kỳ trong giới chiến binh. Và Bảy Người Mạnh Nhất.
“Bảy Người Mạnh Nhất là những cá nhân mạnh nhất thế giới...” – Người giao sữa nói – “...sức mạnh, tiền bạc, quan hệ, họ đều mạnh nhất. Thậm chí nhiều người sở hữu quân đội riêng, ngang một tiểu quốc. Cũng có người chẳng nắm thứ gì trong tay, chỉ một mình, nhưng chẳng ai dám gây sự. Họ là những cá thể mạnh tuyệt đối. Nếu đại thánh sứ Tây Minh ở trong Bảy Người Mạnh Nhất thì ngài là một nhân vật như thế. Nhưng đáng tiếc là ngài luôn từ chối gia nhập.”
“Vậy ai là người như thế?” – Cô bé Tiểu Hồ hỏi.
“Cụ Cố Tổ, người giữ ghế số một trong Bảy Người Mạnh Nhất.” – Người giao sữa trả lời – “Khi còn bé, ta đã nghe về Cụ Cố Tổ. Khi gia nhập Tiểu Đoàn, ta lại nghe về Cụ Cố Tổ. Nhiều năm chiến đấu rồi nghỉ hưu, ta còn nghe về Cụ Cố Tổ. Ông ta đã và đang ở vị trí số một. Ta chết đi, bé con lớn lên nhưng ông ta sẽ ở đó. Biết đâu đấy, một ngày bé con lớn hẳn, thế giới vẫn gọi tên Cụ Cố Tổ.”
Hai năm sau, Tiểu Hồ rời cô nhi viện rồi chẳng bao giờ gặp lại người giao sữa. Dù vậy, những câu chuyện chiến binh hay Cụ Cố Tổ ở lại với cô bé. Mười mấy năm trôi qua, Tiểu Hồ đã trưởng thành, thời thế cũng thay đổi. Ghế số một trong Bảy Người Mạnh Nhất có chủ mới, kẻ phản bội khét tiếng Phương Tưởng đã chết, đại thánh sứ Tây Minh nằm lại đất Tuyệt Tưởng Thành. Người giao sữa dự đoán sai trật ít nhiều, đằng nào ông ta cũng không phải nhà tiên tri. Nhưng đúng là Cụ Cố Tổ còn tồn tại, vững chắc, cao ngất và không thể xô đổ.
Giờ đây, thành trì không thể xô đổ đó đang ngồi trước mặt Tiểu Hồ, tự tiện pha trà thiết mộc, bốc bánh kẹo nhai nhồm nhoàm mà chẳng đợi cô gái mời mọc. Người già thường bất lịch sự, “Cụ Cố Tổ” bất lịch sự gấp mười. Chẳng giấy tờ hay nhân chứng nào xác nhận ông già rách rưới hôi hám kia là kẻ mạnh thứ hai thế giới, nhưng Tiểu Hồ có thể cảm nhận. Mười đầu ngón tay nàng hơi run, mười đầu ngón chân lạnh toát, sống lưng căng ra co giật từng hồi – chúng đang sợ và chúng không nói dối Tiểu Hồ.
Cụ Cố Tổ nuốt miếng bánh, nốc ngụm trà, súc miệng sòng sọc rồi trợn mắt nuốt ực (Tiểu Hồ đã sợ ông ta nhổ toẹt xuống sàn nhà). Ông ta già, rất già. Bộ mặt ổng dài thuỗn kéo lớp da nhăn nheo chảy xệ hai bên má, vành mắt lẫn gò má chi chít dấu đồi mồi, tóc bạc trắng không chừa một sợi đen. Cụ Cố Tổ chép miệng chép lưỡi tèm tẹp:
Tiểu Hồ ngẩn ngơ:
Đại thánh sứ chưa nói với ngài sao?
Không. Tây Minh không nói nhưng ta không quan tâm. Ta thích quà cáp trước, công việc sau. Nói trước, có ba lĩnh vực mà ta bó tay: cải tử hoàn sinh, quay ngược thời gian và chiếm lấy trái tim đàn bà. Nào nói xem, nhóc con Tiểu Hồ, mày muốn ta làm gì?
Tiểu Hồ buột miệng hỏi:
Cụ Cố Tổ nhíu mày, rướn cổ nhìn chòng chọc cô gái bằng đôi mắt mờ mịt, đồng tử của đôi mắt đó gần như hòa lẫn vào lòng trắng, chẳng khác bệnh đục thủy tinh thể. Tiểu Hồ ớn rởn sống lưng, cảm giác mình vừa thốt ra điều gì ngu ngốc.
Tiểu Hồ thở phào, bèn xua tay:
Đương mải tống tộng bánh kẹo vào mồm, Cụ Cố Tổ ngừng nhai, vụn bánh rớt khỏi bộ hàm đang tách đôi. Ông già vội rót cốc trà mới, nốc cạn một hơi làm trôi cơn ngắc ngứ đóng quạnh ở cổ. Sau đấy ông ta thể hiện một loạt ngôn ngữ thân thể, hết bẻ khớp tay nắn khớp gối lại vặn vẹo lưng, tưởng chừng có một cuộc tranh đấu nội tâm dữ dội trong người. Tiểu Hồ đã sẵn sàng lao tới tóm chặt tay ông già rồi ăn vạ, vì nàng thấy ổng nhiều lần nhón mũi chân định đánh bài chuồn. Nhưng rốt cục Cụ Cố Tổ ở lại, lầm bầm lẩm bẩm:
Tiểu Hồ lần ví, kiểm tra thẻ ngân hàng, lẩm nhẩm ước lượng tài khoản còn bao nhiêu tiền. Trông mấy chiếc thẻ trong suốt to bằng lòng bàn tay, Cụ Cố Tổ giật lấy, săm soi chúng bằng đôi mắt mờ đục. Ông ta hỏi:
Cô gái phì cười, nhận ra Cụ Cố Tổ hoàn toàn mù tịt công nghệ kỹ thuật. Mất nửa tiếng để Tiểu Hồ giải thích thẻ ngân hàng là cái gì hay hoạt động thế nào. Như bao người già, Cụ Cố Tổ rất khó khăn để hiểu tại sao có một cái máy nôn khạc ra tiền bạc. Tiểu Hồ đoán ông già này dành quá nhiều thời gian ở nơi rừng rú hoang dã, khi quay lại đô thị văn minh thì bị choáng ngợp, không theo kịp những thứ máy móc tân tiến. Bản thân Cụ Cố Tổ cũng thừa nhận chuyện đó. “Ta ghét thành phố! Ta thích rừng, núi, sông, suối, thú hoang... những tạo vật tự nhiên do Vạn Thế nặn thành hình. Muốn hỏi tại sao ta đến được Phi Thiên thành? Vì ta có bọn giúp việc. Chẹp chẹp!” – Ông già chép miệng.
Ở chiều ngược lại, đôi mắt Tiểu Hồ đã bị nhà cao tầng và ánh sáng văn minh che khuất, không thể chạm tới chốn hoang sơ đầy chuyện kỳ bí. Người ta nói pháp sư hay kiếm thuật sư ngày nay kế thừa những phép thuật đầu tiên vốn sinh ra từ rừng sâu. Là một kẻ kế thừa xuất sắc nhưng Tiểu Hồ mới khám phá ở bìa rừng thế giới phép thuật chứ chưa một lần đi sâu hơn, sâu hơn nữa, nơi mà ánh sáng mặt trời không bao giờ chạm tới. Trước giờ nàng nhìn thấy nơi đó thông qua các cuốn sách cổ, nhưng sách là cái lò đun nấu ngôn từ mà mọi hương vị nguyên thủy bị ngòi bút nêm nếm gia vị. Vì quen thưởng thức món ngon nên Tiểu Hồ khó nuốt nổi những món chưa qua chế biến của ông đầu bếp Cụ Cố Tổ:
Kết chuyện, Cụ Cố Tổ vỗ đùi cười khanh khách. Tiểu Hồ không tin nhưng cũng không dám phản đối. Nàng đành tiêu hóa hết mớ khó nuốt ấy đoạn lảng chuyện khác:
Vẫn thái độ tự nhiên hơn ruồi nhặng, Cụ Cố Tổ lục tủ lạnh moi ra mấy cái bánh Tiểu Hồ vốn làm cho Liệt Trúc. Ông già ăn một chặp, tíu tít khen ngon rồi tiếp tục câu chuyện:
Tiểu Hồ im lặng lắng nghe. Đại thánh sứ Tây Minh biết Ngũ Pháp Sư nhưng chưa bao giờ kể cho nàng nghe những chuyện như thế, hoặc ông không muốn kể, hoặc ông không biết nhiều bằng Cụ Cố Tổ.
Từ lâu, ta nhận ra làm Ngũ Pháp Sư chán òm! – Cụ Cố Tổ bỗng rướn người, săm soi Tiểu Hồ bằng đôi mắt mờ đục – Làm Bảy Người Mạnh Nhất vui hơn! Ngũ Pháp Sư phải dạy dỗ bảo ban một đám ngu đần, còn Bảy Người Mạnh Nhất có thể gõ đầu mọi thằng ngu đần. Và tự do. Ta đi tới mọi nơi ta muốn, không cần lo nghĩ về loài người ngoài kia. Dẫu bọn chúng chết hết thì ta vẫn tồn tại. Ta tồn tại để thấy các vị thần, các thực thể tồn tại trước khi ánh sáng Vạn Thế xuất hiện. Sao, vui chứ hả?
Ngài từng làm Ngũ Pháp Sư? – Tiểu Hồ há hốc miệng.
Một thời gian. Chẹp chẹp! – Cụ Cố Tổ trề môi chép miệng – Ngày nào cũng tiếp đón vô số kẻ tham vọng, lúc nào cũng đưa ra lời khuyên nhưng không ai thèm nghe. Rồi một ngày con chim mỏ vàng đưa thư từ Uất Hận Thành xuất hiện cùng lời đề nghị gia nhập Bảy Người Mạnh Nhất[1]. Ta đồng ý. Quyết định đúng đắn nhất cuộc đời!
Tiểu Hồ chợt nhớ lại cuộc trò chuyện với người giao sữa năm nào. Cô gái hỏi khẽ:
Cụ Cố Tổ không đáp, chỉ cười hềnh hệch, nhe bộ răng nâu xỉn lởm chởm cái sứt cái lành. Ăn uống chán chê, ông già moi ra tẩu thuốc dài ngoẵng, búng tay “tách” một cái, miệng tẩu đỏ lửa đốt lá thuốc đã được nhồi sẵn. Ông ta hút phì phèo, chẳng mấy chốc tạo đám mây màu xanh sậm lơ lửng dưới trần nhà. Tiểu Hồ ho sặc nhưng không dám ý kiến vì đây là kẻ mạnh thứ hai thế giới, chứ là người khác thì cô nàng đốp chát ngay.
Cụ Cố Tổ bỏ câu hỏi của Tiểu Hồ vào quên lãng rồi chuyển vấn đề:
Cô gái cứng họng không biết trả lời ra sao. Cụ Cố Tổ cười khanh khách, nửa đùa nửa thật. Đột nhiên ông ta ngửa cổ thổi phù khiến làn khói xanh sậm trên đầu thay đổi hình dáng. Khói vơi bớt, phần còn lại hiện thành bản đồ thế giới Tâm Mộng. Chưa hết ngạc nhiên, Tiểu Hồ thấy Cụ Cố Tổ đặt lên bàn một bộ bài kỳ lạ ước chừng hơn một trăm lá. Nó cũ nát, xơ xác, rách bươm hệt như vị chủ nhân. Ông già nói:
Tiểu Hồ làm theo ông già, vừa xáo bài vừa phỏng đoán đây là phép bói toán. Nàng từng gặp nhiều thầy bói hoặc pháp sư có khả năng coi bói, họ cũng dùng bài nhưng chưa ai sử dụng quá một trăm lá. Xáo xong, Tiểu Hồ gửi trả. Cụ Cố Tổ ngửa bài. Lá bài không có số cũng chẳng có hình vẽ thường thấy, chỉ toàn nét gạch ngang xiên hoặc ngoằn ngoèo kỳ quặc. Tiểu Hồ chưa từng chứng kiến loại bài nào dị thường như thế.
Và cách xem bài của Cụ Cố Tổ cũng kỳ quặc chẳng kém. Ông già bốc từng bộ chín lá, trong khi hầu hết thuật coi bói chỉ bốc một, hai hoặc cùng lắm là năm lá. Cụ Cố Tổ xếp bốn bộ ở trong, tám bộ ở ngoài, vừa bốc vừa lẩm nhẩm mấy câu chữ khó hiểu, chốc chốc lại ngẩng đầu nhìn đám khói hình bản đồ Tâm Mộng. Nghĩ ngợi hồi lâu, ông già đập bàn, một trăm linh tám lá bài bay lên, vọt qua đám khói, lơ lửng xếp thành đồ hình gồm nhiều đường thẳng lẫn xiên chéo. Tiểu Hồ nhìn mãi và ngớ người ra khi phát hiện nó là bản đồ các vì sao. Cụ Cố Tổ nhìn qua ngó lại, sau rốt chỉ vào một điểm ở lục địa Đông Thổ:
Tiểu Hồ cắn răng suy nghĩ. Nàng mới về, chăm lo Liệt Trúc chưa được bao lâu, nay lại đi tiếp, e chừng con bé sẽ hờn trách. Trẻ con chẳng rộng lượng như người lớn. Nhưng công việc đột xuất, nàng không thể chần chừ thêm.
Ông già thu bài. Phép thuật tiêu tan, đám khói bản đồ Tâm Mộng biến mất. Nhưng ông già chưa thôi cái thói coi nhà người khác như nhà mình. Ông ta tiếp tục lục lọi tủ lạnh, coi đó như phần thưởng trả công coi bói. Cái tủ lạnh cơ man bánh trái kẹo ngọt, quả thực là kho báu với ông ta. Nhìn quanh ngó quẩn mà chẳng tìm được túi xách hay đồ đựng, Cụ Cố Tổ vén vạt áo dài, thảy tất cả kẹo bánh nhỏ to vào đó. Tiểu Hồ tức lắm mà không thể làm gì. Lão già mạnh hơn Tiểu Hồ, đồng thời là kẻ duy nhất có thể giúp đỡ cô gái.
Cụ Cố Tổ đương tí tởn thì Liệt Trúc từ phòng riêng đi ra. Một già khú đế chạm mặt một nhóc tì. Không khó để Liệt Trúc nhận ra ông già lạ mặt kia đang tự tiện xâm nhập tủ lạnh. Cũng không khó để con bé nhìn thấy trong vạt áo của lão già có món bánh trứng mà nó yêu thích. Đứa nhóc tì lườm nguýt:
Con bé nói thật làm thật. Nó sấn sổ bước đến giật phăng món bánh trứng. Lão già nổi quạu:
Cụ Cố Tổ trút mớ bánh kẹo xuống đất, tuy thích đồ ăn nhưng Liệt Trúc làm ông ta hứng thú hơn. Ông già rờ ngón tay khô đét lên mặt con bé tóc đỏ. Liệt Trúc gạt phắt ra, không ngần ngại tỏ thái độ rằng sẽ úp bánh trứng vào mặt ông ta nếu còn bị sờ soạng. Cụ Cố Tổ cười khanh khách, hàm răng nâu xỉn lập cập đánh vào nhau vẻ phấn khích:
Đôi mắt mờ đục của ông già xoáy vào Liệt Trúc. Con bé cứng đờ người. Con sói non tóc đỏ mới đây hung dữ giờ chạy vội, nấp sau Tiểu Hồ như cún con. Nhưng Cụ Cố Tổ không dừng lại, ông ta bước tới, tỏ rõ ý đồ muốn mang Liệt Trúc đi như cái cách ông ta thản nhiên bước vào nhà, thản nhiên vơ vét đồ ăn. Tiểu Hồ bèn rút kiếm. Trông mũi kiếm nhọn hoắt chĩa thẳng mặt, lão già không đếm xỉa mà chỉ chăm chăm vào Liệt Trúc.
Giữa lúc đó, cửa căn hộ bật mở, kế đến là tiếng bước chân chậm rãi. Một người khác xuất hiện ở cửa ra vào, miệng cắn điếu thuốc hút dở, tay xách nách mang bia lẫn rượu. Vừa thấy người nọ, Tiểu Hồ thở phào nhẹ nhõm. Cụ Cố Tổ nghiến răng trèo trẹo:
Mày... Bất Vọng... thẳng lỏi con!
Chào bố già! – Bất Vọng hơi cúi đầu – Bố già qua chơi mà không bảo tôi một tiếng? Tôi có mang rượu cho bố già, uống chứ?
Cụ Cố Tổ thở phì phì, hai bàn tay nắm chặt kêu rôm rốp. Ông già ngoảnh sang Tiểu Hồ:
[1]: con chim mỏ vàng từng xuất hiện ở Quyển 3 Chương 83