Vị tăng đương nói chuyện ở trong phòng của ba người thì một đạo nhân hoảng hốt chạy vào báo:
Vị tăng từ giã ba người, cùng đạo nhân đi ra và hỏi đạo nhân:
Có phải cái thằng Long Tam khốn nạn đấy không?
Chứ còn ai nữa! Lần này hắn đến đây định giở trò gì còn kỳ lạ hơn trước nữa kia. Thầy ra mà xem!
Vị tăng xuống lầu, đi qua phòng trà. Những người hầu đang quạt trà ở ngoài cửa. Thầy tăng đến chỉ thấy một người đang ngồi trên ghế: hắn mặt đen, mắt vàng, râu ria xồm xoàm, đầu đội một cái mũ phượng cắt bằng giấy, mình mặc một cái áo đàn bà bằng vải lam, một cái quần vải trắng chân đi một đôi hài rộng thêu hoa. Hai người khiêng kiệu đang đứng ở sân trong đòi tiền. Người lạ mặt này thấy vị tăng liền cười nhăn nhở. Hắn nói:
Vị tăng cau mày nói: - Này Long Tam! Mày lại đến đây làm gì thế? Làm cái trò gì thế này?
Và vội vàng trả tiền cho những người khiêng kiệu để cho họ đi.
Vị tăng lại nói: - Long Tam! Mày còn chưa cởi thứ áo quần ấy đi à! Mày ăn mặc gì kỳ quặc thế kia?
Long Tam nói: - Mình ơi! Sao mình lại tệ thế? Bây giờ mình làm quan rồi thế mà mình không cho tôi một cái mũ phượng bằng vàng cho tôi đội, không may cho tôi một bộ áo thêu đỏ để tôi mặc cho ra vẻ một bà quan, đến nỗi tôi phải mang một cái mũ phượng bằng giấy. Người ta cười mặc kệ người ta! Tại sao mình lại bảo tôi cất nó đi?
Mình ơi, mình lại nói sai rồi! Vợ chồng với nhau thân thiết, tôi giận mình làm gì?
Tao nhận rằng hôm nay tao có lỗi vì tao không mời mày, nhưng mày phải thay áo quần đi rồi vào bàn mà uống rượu. Chứ cứ ăn mặc như cái thằng điên như thế này thì thiên hạ người ta cười cho!
Nếu vậy thì tôi có lỗi! Tôi là bà vợ thì phải ngồi ở phòng trong để chuẩn bị các thức ăn, gọt trái cây và lo công việc nhà cho mình chứ! Có lẽ nào lại có đàn bà ngồi ngoài nhà khách như thế này? Người ta mà vào thì người ta cười rằng ở đây đàn ông, đàn bà chẳng có gì phân biệt cả. Vừa nói xong, hắn liền chạy tọt vào phòng. Vị tăng cản không được, chạy vào phòng nói:
Long Tam! Cái lối đùa như thế bây giờ không được đâu. Nếu quan trên người ta biết thì cả hai người còn ra thể thống gì nữa.
Mình ơi, mình cứ yên tâm! Cổ nhân đã có câu: "Các quan không thể bàn đến việc nhà người khác".
Vị tăng giận dữ giẫm chân đành đạch. Long Tam ngồi điềm nhiên trong phòng và gọi người đạo nhân vào bảo:
Vị tăng đi ra, trong lòng bực bội. Ra đến ngưỡng cửa thì gặp ba người là Tiêu, Gia Cát và Quý. Vị tăng không thể cản họ vào. Quý nói:
"Bà" kia đứng lên cười và nói:
Vị tăng tức bực nói không ra lời, ba người khách nhịn cười không được. Vừa lúc ấy, người đạo nhân chạy vào báo:
Vị tăng đành phải ra tiếp khách. Vưu và Quách là hai người thư biện ở nha môn. Họ bước vào vái chào và ngồi uống trà. Nghe tiếng người nói ở phòng bên, họ lại bước vào xem, vị tăng không làm sao cản được. Hai người bước vào trông thấy Long Tam liền giật mình hỏi:
Vừa hỏi vừa nhịn cười không được. Bốn năm người đồng thời cười rộ lên. Vị tăng lại càng tức lồng lộn, không biết làm sao, nói:
Vưu cười hỏi:
Tên nó là gì?
Tên nó là Long Tam.
Quách hỏi:
Này Long Tam! Hôm nay vị tăng của chúng tao có việc vui mừng, mày đến đây làm náo loạn để làm gì. Mau mau cởi quần áo ra và xéo đi ngay.
Việc này là việc riêng của chúng tôi không liên quan gì đến các ông.
Vưu nói:
Tiêu Kim Huyễn nói:
Nhưng Long Tam cũng không chịu.
Trong lúc mọi người đang bàn bạc thì đạo nhân lại vào báo:
Đang nói thì Đổng làm thư biện và Kim Đông Nhai đã bước vào phòng. Kim Đông Nhai nhận ra Long Tam liền quát:
Rồi quay ra bảo những người đầy tớ:
Long Tam thấy Kim Đông Nhai thì sợ hãi, cất mũ phượng thay quần áo và nói:
Kim Đông Nhai nói:
Long Tam thấy thế không dám làm gì, cúi chào Kim Đông Nhai rồi đi ra. Vị tăng đưa các vị khách xuống lầu lại vái chào, mời ngồi, đặc biệt cảm ơn Kim Đông Nhai. Khi những người hầu trà đã bưng trà lên, Quách nói:
Ông Kim, mấy lâu nay ông vẫn ở Kinh, thế ông về Giang Nam bao giờ thế?
Gần đây tôi gặp phải nhiều việc rắc rối tốn tiền, nên phải nghĩ đến việc về nhà. Về nhà, đứa con của tôi may mắn thi đỗ tú tài, không ngờ lại gây ra nhiều chuyện bàn tán nọ kia. Mặc dầu cái thực bao giờ cũng không thể giả được nhưng cũng mất mấy lạng bạc. Ở nhà buồn không có việc gì, tôi lên Dương Châu thăm cụ Tuân 1 là chỗ quen biết cũ ở Kinh. Cụ Tuân có lòng tốt giao cho tôi làm một chức trong sở muối, kiếm được mấy trăm lạng bạc.
Đồng hỏi:
Ông có biết cụ Tuân hiện nay có việc mới xảy ra không?
Không, việc gì thế?
Ông ta vừa mới bị bắt mấy hôm nay về tội ăn hối lộ. Kim Đông Nhai nói:
Thật là họa phúc sớm chiều không ai biết trước được.
Quách hỏi:
Đồng nói:
Mọi người nói:
Kim Đông Nhai bèn hỏi họ tên ba người khách. Ba người này đều nói họ tên của mình. Kim Đông Nhai nói:
Một lát sau, mấy chục người khách đến, cuối cùng là ba người đội mũ vuông và một người đạo sĩ đi vào. Mọi người không biết vị đạo sĩ này là ai. Một trong những người mới đến, đội mũ vuông hỏi:
Quý Điềm Dật nói:
Người kia lấy ở trong ống tay áo một bức thư:
Quý Điềm Dật mở thư cùng đọc với Tiêu và Gia Cát biết rằng bốn người ấy là Tân Đông Chi, Kim Ngụ Lưu, Quách Thiết Bút và Lai Hà Sĩ. Quý nói:
Bốn người thấy ở đây có việc nên xin cáo từ. Vị tăng giữ họ lại nói:
Biết là không thể từ chối, bốn người đều ngồi xuống. Kim Đông Nhai bèn hỏi đến việc cụ Tuân xem có đúng hay không. Quách Thiết Bút nói:
Đến tối, Tân Đông Chi và Kim Ngụ Lưu trở về thành nghỉ ở am Đồng Hoa Viên. Những người khách khác cũng đều về nhà. Quách Thiết Bút và Lai Hà Sĩ ở lại một đêm với Gia Cát Thiên Thân. Hôm sau, Lai đạo sĩ đến Thần Lạc Quán để tìm một vị đạo sĩ khác. Quách Thiết Bút thuê một cái phòng ở cửa chùa Báo Ân và mở một hiệu khắc dấu ở đấy.
Quý Điềm Dất và hai người kia bắt đầu ghi sổ ăn chịu tại hiệu Tụ Thăng Lâu ở trước cửa chùa. Mỗi ngày mua cơm, đồ ăn và uống rượu ở đấy, tất cả độ bốn năm mươi đồng tiền. Khi việc làm ăn tuyển đã xong, họ thuê bảy tám người thợ đến khắc mua chịu độ một trăm cuốn giấy và chuẩn bị in. Độ năm tháng sau thì số tiền của Gia Cát không còn lại bao nhiêu nữa. Nhưng họ vẫn tiếp tục ăn chịu như thế. Hôm ấy, Quý Điềm Dật và Tiêu Kim Huyễn cùng nhau dạo chơi quanh chùa. Quý nói:
Tiêu nói:
Đang lúc nói chuyện thì Gia Cát đến. Hai người không nói nữa. Ba người đi dạo chơi một lát rồi cùng về phòng thì thấy một cái kiệu, với hai người mang hành lý tiến về phía họ. Ba người cũng đi theo đoàn người này vào chùa.
Rèm kiệu vừa mở, trên kiệu là một người thanh niên đội mũ vuông. Gia Cát nhớ mang máng là một người mình quen. Nhưng kiệu chạy như bay. Gia Cát nói:
Và chạy theo hỏi người đầy tớ:
Các ông ở đâu đấy?
Ông chủ chúng tôi là ông Đỗ ở Thiên Trường. Gia Cát quay trở lại. Ba người thấy cái kiệu và những người mang hành lý đến nhà hòa thượng sát vách với cái nhà ba người nghỉ trọ. Gia Cát Thiên Thân nói với hai người - Người vừa đi qua là cháu Đỗ thượng thư ở Thiên Trường. Tôi đã gặp ông ta. Ông ta là một vị danh sĩ ở đất chúng tôi. Không biết ông ta đến đây có việc gì? Ngày mai tôi phải đến gặp mới được!
Hôm sau, Gia Cát Thiên Thân đến thăm, nhưng Đỗ không ở nhà. Ba hôm sau, Đỗ mới đến đáp lễ. Ba người cùng ra đón. Hôm ấy là một ngày cuối xuân đầu hạ. Trời đã dần dần ấm áp. Đỗ mặc áo sa màu da cam, tay cầm một cái quạt đề thơ, chân đi giày tơ bước vào. Khi Đỗ đến gần, máy người nhận thấy Đỗ mặt trắng như dồi phấn, mắt đen lay láy, dáng người nho nhã, thật là một vị thần tiên giáng thế. Đỗ đẹp trai như Phan An 2, thơ hay như Tào Tử Kiến 3, là người danh sĩ nổi tiếng nhất nhì ở đất Giang Nam. Sau khi vái chào, tất cả ngồi xuống. Đỗ hỏi họ tên hai người, và ở đâu đến. Đỗ lại nói: "Tôi là Đỗ Thuyến tự là Thận Khanh" và quay lại phía Gia Cát nói:
Gia Cát Thiên Thân nói với hai người:
Đỗ Thận Khanh cười nói:
Tiêu Kim Huyễn nói:
Ông lại là bậc tài giỏi nhất ở trong gia đình, hôm nay may mắn được gặp, rất mong được chỉ giáo.
Mấy người ngồi xuống uống một chén trà rồi vào trong phòng. Nhìn thấy trên bàn đầy cả những bản văn tuyển khắc chữ đỏ, trông loạn cả mắt, Đỗ Thận Khanh nhìn qua rồi để sang một bên. Đột nhiên giở đến một bài thơ của Tiêu Kim Huyễn làm ngày trước nhan đề "Đi thăm đầm Ô long vào mùa xuân". Đỗ nhìn xong, gật đầu nói:
Hoa đào tội gì thắm như vậy
Dương liễu bông dưng xanh dễ thương
viết như thế này thì e nó quá công phu và, cố ý. Bây giờ ta thêm một chữ "hỏi" ở câu đầu.
(Hỏi) hoa đào tội gì thắm như vậy?
thì thành một câu từ rất hay theo điệu "Hạ Tân Lương" ngay. Bây giờ tiên sinh lại đem viết nó thành thơ và thêm vào đằng sau một câu gò ép thành ra nó phạt.
Lời phê này làm cho Tiêu Kim Huyễn sợ toát mồ hôi.
Quý Điềm Dật nói:
Đỗ Thận Khanh nói:
Ngồi một lát Thận Khanh xin từ biệt.
Hôm sau, Đỗ Thận Khanh viết thiếp đề "Ở nhà tôi hoa mẫu đơn nở nhiều. Tôi đã sửa soạn mấy chén trà nhạt mời các vị đến nói chuyện chơi". Ba người vội vàng mặc áo đến. Thấy một người nữa ngồi với Đỗ. Sau khi vái chào nhau, họ mời người ấy ngồi ghế đầu. Đỗ Thận Khanh nói:
Quý Điềm Dật nhận ra người kia là Bão Đình Tỷ đã đưa thư từ Dương Châu đến cho mình. Và nói với hai người:
Bèn hỏi:
Bão Đình Tỷ cười và nói:
Đỗ Thận Khanh nói:
Bão Đình Tỷ và một người đầy tớ mang bàn đến. Đỗ Thận Khanh nói:
Lúc bưng lên, quả nhiên chỉ thấy có mấy đĩa sơ sài như thế thôi. Rượu rót đầy chén, toàn là rượu quất thượng hạng ở phố Vĩnh Ninh, Đỗ Thận Khanh là một tay tửu lượng rất khá. Đỗ không ăn gì, sau khi nâng đũa mời khác, Đỗ chỉ gắp mấy miếng măng và vài quả anh đào để nhắm rượu. Cốc rượu cứ cạn lại đầy, uống mãi tới quá trưa. Đỗ gọi mang đồ điểm tâm lên. Bánh nhân thịt, bánh nhân thịt vịt quay, bánh rán mỡ ngỗng; bánh ngọt được mang lên. Sau khi dùng điểm tâm, mỗi người uống một chén trà Lục An pha với nước mưa, riêng Thận Khanh chỉ ăn một cái bánh ngọt và uống một chén trà. Y bảo thu dọn bàn tiệc, lại bảo đem rượu lên uống.
Tiêu Kim Huyễn nói:
Đỗ Thận Khanh cười mà rằng:
Nói xong, Đỗ liếc mắt nhìn Bão Đình Tỷ. Bão Đình Tỷ cười và nói:
Bão liền đi vào phòng, lấy một cái sáo ở trong bao gấm ra rồi ngồi ở bàn tiệc bắt đầu thổi. Trong khi đó, một đứa trẻ đứng bên cạnh Bão Đình Tỷ vừa vỗ tay đánh nhịp, vừa hát bài "Thanh bình điệu" của Lý Bạch. Tiếng sáo khi trầm khi bổng, réo rắt như xé trời xanh. Ba người dừng chén ngây ngất lắng nghe. Thận Khanh lại một mình uống luôn mấy chén. Họ uống mãi đến lúc trăng lên, ánh trăng chiếu vào hoa mẫu đơn làm cho sắc đẹp của hoa lại tăng thêm bội phần, cả cái vườn trắng như tuyết. Ba người ngây ngất như muốn đứng dậy nhảy múa. Thận Khanh đã say mềm. Vừa lúc ấy, một vị hòa thượng chậm rãi bước vào, tay cầm một cái hộp bọc gấm. Mở hộp ra, trong ấy có một tràng pháo Kỳ Môn. Hòa thượng nói:
Đỗ cười:
Đình Tỷ cầm một cây đèn sáp, đưa ba người ra ngoài và đóng cổng lại.
Ba người về nhà, bàng hoàng như đi trong giấc mộng. Hôm sau, người bán giấy đến đòi tiền. Không có tiền, hắn làm ồn một trận. Rồi đến người chủ quán ở hiệu Tụ Thăng Lâu đến đòi tiền ăn. Gia Cát phải cân hai nắm bạc vụn đưa cho hắn để cho hắn đi. Ba người bàn nhau mời Đỗ Thận Khanh ăn tiệc để đáp lễ. Vì không thể dọn tiệc ở nhà, họ đành phải mời Đỗ Thận Khanh đến quán Tụ Thăng Lâu.
Hai ngày sau, trời trong gió mát, ba người ăn cơm xong đến nhà Đỗ Thận Khanh. Bước vào cửa đã thấy một bà chân to đang ngồi trên ghế dài nói chuyện với một người gia nhân. Người gia nhân thấy ba người đến, liền đứng dậy. Quý Điềm Dật hỏi người gia nhân: "Bà ấy là ai?".
Gia nhân nói:
Đó là một bà mối tên là bà Thẩm chân to.
Bà đến đây có việc gì?
Bà ấy đến đây có việc riêng.
Ba người đoán biết rằng Đỗ muốn lấy vợ lẽ cho nên không nói nữa. Bước vào nhà, thấy Đỗ đang dạo chơi ngoài hành lang. Thấy ba người đến, Đỗ liền mời vào nhà ngồi và bảo người nhà pha trà.
Quý nói:
Đỗ mang một tiểu đồng đi theo. Ba người kéo Đỗ đến quán rượu Tụ Thăng Lâu. Đỗ không từ chối, đành phải ngồi xuống. Quý biết tính Đỗ không thích thịt lợn cho nên bảo dọn thịt vịt, cá, thịt bò tái, nem và rượu. Uống hai chén rượu xong, họ mời Đỗ ăn đồ nhắm. Đỗ Thận Khanh gượng ăn một miếng thịt vịt, nhưng vừa bỏ vào miệng thì đã nôn ra, mọi người cũng không tiện mời. Trời còn sớm, họ không uống nhiều rượu mà ăn cơm ngay. Đỗ đổ một chén trà vào bát cơm rồi cố gắng ăn nhưng không thể ăn hết, liền đưa cho người tiểu đồng ăn. Ba người ăn cơm và uống rượu xong, xuống lầu, trả tiền, đi ra.
Tiêu Kim Huyễn nói:
Đỗ Thận Khanh nói:
Mấy người cùng đi lên đồi vào trong đền thờ, thấy bàn thờ Phương Hiếu Nho và Cảnh Thanh 5 rất là nguy nga. Họ lại trèo lên đỉnh đồi. Xa xa, nhìn thấy khói ở các mái nhà trong thành bốc lên. Con sông Trường Giang trắng xóa như một dải lụa bạch. Những ngọn tháp lợp ngói lưu ly thiếp vàng sáng chói cả mắt. Đỗ Thận Khanh đi đến trước điện nhìn bóng của mình dưới ánh mặt trời, trong lòng bồi hồi khôn xiết. Họ ngồi xuống cỏ. Gia Cát Thiên Thân thấy ở xa có một cái bia nhỏ liền chạy đến xem. Xem xong chạy về ngồi xuống nói:
Đỗ nói:
Tiêu Kim Huyễn nói:
Họ ngồi chơi mãi cho đến khi mặt trời xế bóng. Bỗng thấy hai người gánh phân quảy hai thùng không cùng lên núi nghỉ. Một người vỗ vai người kia nói:
Đỗ Thận Khanh cười mà rằng:
Thật là phong khí Lục Triều 8 để lại đến nay vẫn không phai chút nào! Những người nấu ăn và những người gánh phân mà cũng thanh lịch như thế!
Họ xuống đồi về nhà. Đến cửa chùa, Gia Cát nói: - Mời ông vào nhà chúng tôi chơi.
Đỗ Thận Khanh nói:
Tất cả đi vào. Vừa bước đến cửa đã thấy Quý Vi Tiêu ngồi ở trong phòng. Quý Điềm Dật mừng rỡ nói:
Quý Vi Tiêu nói:
Quý Điềm Dật nói:
Quý Vi Tiêu nói:
Tiêu Kim Huyễn nói:
Vâng.
Còn vị này?
Quý Điềm Dật nói:
Quý Vi Tiêu nói:
Vi Tiêu đứng dậy vái chào. Đỗ Thận Khanh cũng cúi đầu đáp lễ. Mọi người thi lễ xong ngồi xuống, vừa lúc ấy một người cười rộ bước vào, nói:
Quý Vi Tiêu nhận ra người ấy chính là Bão Đình Tỷ bèn nói ngay:
Bão Đình Tỷ nói:
Tiêu Kim Huyễn nói:
Quý Vi Tiêu nói:
Đỗ Thận Khanh nói:
Chỉ nhân phen này, khiến cho:
Phong lưu hội cả, Giang Nam lại thấy dấu kỳ;
Trác lạc tự trời, thiên hạ đều truyền phong nhã
Muốn biết sự việc như thế nào hãy xem hồi sau phân giải.