Mười ngày sau, Thất điện hạ có mặt ở Hành cung, triệu tập bá quan để ăn mừng.
Tất nhiên, ông hết lời khen ngợi Nam Cung Giao.
Chàng cười đáp:
Thất vương gia trợn mắt:
Đặc ân này rất lớn vì ngay Mã thượng thư cũng không được phép!
Các quan thầm ganh tỵ với Nam Cung Giao, nhưng ngoài miệng vẫn tán dương công trạng của chàng!
Ông tặc lưỡi nói tiếp:
Thất vương phi che miệng cười:
Vương gia vui vẻ đáp:
Lưu Cát nghe cảm động đến nghẹn lời trước thái độ của Nam Cung Giao, tự nhủ sau này đền ơn đáp nghĩa!
Kể từ hôm ấy, Nam Cung Giao và hai vị hôn thê liên tục được mời sang Hành cung dự yến.
Quyền lực của Mã thượng thư cũng nhờ thế mà càng thêm vững mạnh!
Bá quan Nam Kinh và các phủ phía Nam đều ra sức o bế Mã Xuân Trác và Nam Cung Giao.
Giờ đây, chàng được cả Vương gia lẫn Vương phi sủng ái, nói gì họ cũng nghe.
Nam Cung Giao đã xin xá tội cho kẻ tử tù là quan Vệ úy Lâm Trung, chỉ huy lực lượng thị vệ ở Hành cung!
Họ Lâm thoát chết, dù bị giáng xuống làm phó cho Mã Kim Khu, nhưng cũng hết lòng tri ân chàng!
Trịnh Kiều đã tặng Nam Cung Giao ba chục tay đao giỏi nhất làm thủ hạ!
Chàng bèn giao một nửa cho Kim Khu để bảo vệ Vương gia!
Mười lăm người còn lại ở trong phủ Thượng thư cùng anh em họ Sở và Cuồng Vũ Đao.
Sách lão đã già nên vui vẻ nhận chân hộ viện cho nhà họ Mã!
Riêng Mộc Kính Thanh là không vui, ngày nào cũng đi chơi đến tận nửa đêm mới về. Không thấy gã say, Nam Cung Giao lại trách:
Kính Thanh nở nụ cười thê lương:
Nam Cung Giao rầu rĩ đáp:
Kính Thanh cười cợt:
Nam Cung Giao xua tay:
Cuối tháng ba, Thần Nữ vẫn chưa có hỉ tín.
Mộc Kính Thanh lặng lẽ bõ đi, để lại thư cho Nam Cung Giao:
“Đại ca nhã giám!
Tiểu đệ không nỡ để đại ca rời xa cảnh nhung lụa ấm êm, nên sẽ thay đại ca đi Bắc Kinh! Nếu tiểu đệ thất bại, không trở về nữa, thì có nghĩa là đại ca cũng chẳng nên đi cho uổng mạng! Nhớ nhau, xin đại ca thắp ba nén hương và bày chung rượu nhạt là đủ!
Ngu đệ Mộc Kính Thanh bái bút”.
Nam Cung Giao thở dài, đốt lá thư, rồi tìm đến phòng Thần Nữ. Chàng buồn rầu kể lại việc Kính Thanh một mình liều mạng đến Bắc Kinh ám sát Bình Phiên Công Trương Phụ.
Chàng lại bảo:
Thần Nữ bẽn lẽn cúi đầu:
Trong lúc Vân Mi thu xếp hành lý Nam Cung Giao trở về phòng, cho gọi Sở Trường Thụy Iên, chàng nghiêm giọng:
Trường Thụy ngượng ngùng đáp:
Xin công tử điều anh em khác, bởi bọn thuộc hạ đang định đưa Tứ muội về Hợp Phì!
Vì sao vậy?
Trường Thụy chua xót đáp:
Nam Cung Giao mừng rỡ vỗ đùi:
Trường Thụy cảm kích quì xuống lạy:
Nam Cung Giao đỡ gã lên, nghiêm giọng:
Chàng lại cười:
Hôm sau, người trong gia đình họ Mã lưu luyến tiễn Nam Cung Giao và Thần Nữ Tiền Vân Mi lên đường về Cán Châu.
Hoàn Cơ buồn rười rượi và rất tủi thân. Nàng đã vì gia phong mà không dám hiến thân cho tình quân, đành bám víu vô lời hứa hẹn của Nam Cung Giao.
Cuộc ra đi này được giữ kín, kẻ trước người sau rời phủ chứ không rầm rộ một lúc.
Khi sang đến bờ Nam Trường Giang, Nam Cung Giao lẳng lặng quay lại cùng hai gã cao thủ Thế Thiên hội đi lên hướng Bắc.
Hai gã này là cháu ruột gọi Hội chủ. Thế Thiên hội Trịnh Kiều bằng thúc phụ.
Trịnh Tháo là anh, ba mươi sáu tuổi còn Trịnh Mãng là em nhỏ hơn một năm. Họ được chân truyền pho Tuyệt Mệnh đao pháp Trịnh gia nên bản lãnh cao cường nhất, chỉ thua có mình Hội chủ.
Kẻ có tài thường ngang bướng, và do tình quyến thuộc nên Trịnh Kiều lại càng khó xử. Vì thế, lão đã đẩy hai đứa cháu bất trị sang cho Nam Cung Giao!
Trịnh Tháo và Trịnh Mãng sinh trưởng ở Bắc Kinh, sáu năm trước mới đến tham gia Thế Thiên hội. Họ rành rẽ, thông thuộc địa thế Bắc Kinh nên đã được Nam Cung Giao cho tháp tùng!
Hai gã vô cùng hoan hỉ vì được về thăm cố thổ, nếm lại những lạc thú đất Kinh Sư! Giờ đây bạc vàng đầy túi, nhờ sự rộng rãi của Nam Cung công tử, họ có quyền mò đến những nơi sang trọng nhất!
Là anh em ruột nên dung mạo dáng vóc hao hao giống nhau, cao trung bình mặt vuông, mắt dài, mày xếch, mũi ưng, môi dầy đĩ thõa.
Tuy hay cười, hay bông lơn, nhưng thủ đoạn của hai gã tàn nhẫn phi thường, giết người chưa bao giờ biết run tay!
Trung lúc Nam Cung Giao và họ Trịnh tất tả bôn hành, chúng ta sẽ về Cảnh Đức trấn để xem cảnh nhà Nam Cung Giao nhận dâu!
Gần giữa tháng tư, lúc trời đã tối hẳn, có năm người khách đến gõ cửa Tế An đường của nữ danh y họ Đặng.
Nam Công Bột bước ra mở cửa, niềm nở hỏi:
Biết lão già to béo, cao lớn nay là Nam Cung Bột, Sở Tường Thụy kính cẩn vòng tay đáp:
Nam Cung Bột mừng rỡ mở toang cửa:
Ông chợt hạ giọng:
Năm người cúi đầu vâng dạ, Thần Nữ và Sở Nhu đứng sau cùng nên Nam Cung Bột không thay, lúc họ bước qua ngạch cửa. Lão nhận ra sự tương phản của hai người, ngơ ngác gãi tai tự hỏi:
Lão hối hả mời khách ngồi, chạy vào gọi Trinh Tâm.
Nghe nói có người mang tin của trưởng tử về, bà mừng rỡ thay áo ra ngay.
Lộc nhi và Hà nhi cũng đi theo mẹ!
Tuy không son phấn, song Trinh Tâm vẫn rất đẹp so với số tuổi gần ngũ thập, làn da bà trắng trẻo mịn màng, chỉ điểm vài nếp nhăn nơi đuôi mắt. Khi bà cười, hai lúm đồng tiền duyên dáng kia khiến gương mặt trẻ như mới ba mươi.
Cả năm người khách nhất tề quì xuống, nhưng chỉ có hai nữ nhân run rẩy lên tiếng:
Trinh Tâm choáng váng, sửng sốt nhìn hai nàng dâu, thầm nhủ:
Bà cố trấn tĩnh bảo:
Vân Mi vội cung kính trao thư cho bà.
Năm người khép nép ngồi xuống ghế tựa, chăm chú theo dõi nét mặt gia chủ.
Nam Cung Bột vui vẻ nói:
Sở Tích Vũ nãy giờ dán mắt vào, những hũ rượu thuốc lớn trên kệ, buột miệng nói ngay
Nam Cung Bột mở cờ trong bụng, liếc phu nhân, mũi phập phồng, nói giả lả:
Cạnh hũ lớn có những bình nhỏ độ một cân chiết sẵn để bán cho khách.
Nam Cung Bột xách ngay một bình đến bàn, rót ra mời mọc.
Họ vừa cạn chén thứ hai thì Trinh Tâm lên tiếng:
Sở Tích Vũ vội viện bạch:
Trinh Tâm hiếu kỳ hỏi:
Tích Vũ hăng hái xác nhận:
Nam Cung Bột khoái chí cười ha hả:
Trinh Tâm tủm tỉm cười:
Rồi bà nghiêm giọng:
Nam Cung Bột vội cạn chén thứ ba, đưa tay nhận thư.
Đọc xong, lão hắng giọng phát biểu:
Trinh Tâm đáp ngay:
Nam Cung Bột đắc ý cười hể hả, vuốt râu nói:
Lão tiện tay nâng chén lên uống thì nghe người vợ ngoan hiền nhắc nhở:
Nam Cung Bột ngượng ngùng đặt xuống:
Khách không dám nhưng Lộc nhi và Hà nhi cười dòn dã, đồng thanh hét lên:
Nhất nhật tam bôi hề
Tráng lão ích tho.
Đa nhất bôi hề
Phụ thân chung dạ tương tư
Ô hô! Ai tai!
(Dịch)
Ngày ba chén hề
Tốt Ião sống lâu
Thêm một chén hề
Cha suốt đêm nhung nhớ
Tiếc thay! Buồn thay!
Bài đồng dao này do Nam Cung Giao nghĩ ra và dạy cho hai cô em gái.
Bình thường chúng vẫn nghêu ngao nhưng chẳng hề bị phụ mẫu trách mắng. Nay trước mặt khách, chúng đem ra hát chơi, khiến mặt Trinh Tâm đỏ như gấc còn Nam Cung Bột thì xấu hổ đến mức chỉ muốn độn thổ.
Thẹn quá hóa giận lão hùng hổ uống cạn chén thứ tư trên bàn.
Giờ chúng ta sẽ quay lại với cuộc hành trình của Nam Cung Giao. Chàng và hai thủ hạ đã đến Từ Châu trưa ngày rằm tháng tư.
Ba người vào Tứ Hải đại lữ điếm nghỉ trọ.
Tắm gội xong, chàng rủ anh em họ Trịnh:
Trịnh Tháo khoan khoái đáp:
Nhưng khi đến nơi, Nam Cung Giao ngơ ngác nhìn cảnh điêu tàn, đổ nát, quán thịt chó đã bị phá sập, gạch ngói ngổn ngang.
Dưới ánh nắng gay gắt cuối xuân, một phụ nhân nhỏ bé đang ngồi khóc lóc bằng tiếng Giao Chỉ:
Nam Cung Giao kinh hãi xuống ngựa, chạy đến đỡ bà lên và hỏi:
Bà nhìn một lúc, nhận ra người khách trẻ tuổi hồi trong năm, lại òa lên khóc lóc, kể lể:
Nói xong, bà ngất xỉu trong vòng tay Nam Cung Giao!
Chàng vội bồng bà lên, đi sâu vào trong thôn. Phía sau quán thịt chó, cách một thửa ruộng có vài chục nóc nhà của dân Giao Chỉ, đa số là nhà tranh hay gỗ! Và tất cả đều đang được sửa chữa lại. Cái thì đã xong, cái vẫn dở dang. Điều này chứng tỏ thôn xóm vừa gặp tai họa.
Đám tửu khách từng gặp chàng hồi giữa tháng mười một, mừng rỡ gọi vang, chạy đến chào hỏi.
Có hai phụ nhân đỡ lấy Trần mẫu đưa vào nhà chăm sóc.
Đấy là căn nhà gỗ lợp ngói của trưởng thôn họ Lê!
Lão đông con trai nên đã sửa xong, liền mời Nam Cung Giao vào nhà dùng trà.
Lão buồn rầu kể:
Nam Cung Giao nghe như đất trời sụp đổ, phẫn nộ gầm vang tựa hổ rống, nước mắt chảy dài.
Thấy mọi người hoảng sợ, chàng cố trấn tĩnh lại và hỏi:
Lê lão chua chát đáp:
Nam Cung Giao ở phủ Hình Bộ đã vài tháng, biết rõ luật lệ này, chàng gật gù:
Lê lão hậm hực:
Nam Cung Giao cười nhạt:
Lê lão ngơ ngác, rụt rè hỏi lại:
Chàng lắc đầu, móc ra một tập ngân phiếu đếm rồi trao cho lão:
Kỹ thuật làm giấy của Trung Hoa rất cao. Sản xuất ra được những loại giấy cực kỳ tốt. Dĩ nhiên, giấy ngân phiếu phải là hạng tốt nhất, láng mịn và dai bền. Nét in cũng tinh xảo có hoa văn chim, hình mây, núi, rồng, phượng. Tóm lại là rất khó làm giả!
Lê trưởng thôn rời ghế quì ngay xuống, nghẹn ngào vái tạ.
Người trong thôn nãy giờ xúm lại nghe ngóng, cũng vội quì theo.
Nam Cung Giao buồn rầu nói:
Mọi người đồng thanh hứa!
Nam Cung Giao cùng hai gã họ Trịnh trở về thành Từ Châu!
Trịnh Mãng nóng nảy nói:
Nam Cung Giao xua tay, giọng lạnh như băng:
Hai gã không biết, mục đích chuyến thượng Kinh này nhưng cũng gật đầu.
Họ tự hỏi phải chăng chủ nhân của mình định hành thích Thiên tử?
Ba người dừng cương trước tòa Bành Thành Đệ Nhất Tửu lâu, lên tận tầng hai ngồi cho mát.
Bành Thành vốn là tên rất xưa của Từ châu. Nam Cung Giao thường ngày tươi tắn nhưng giờ đây sắc diện u ám ánh mặt đầy vẻ bi thương, thống khổ.
Chàng để mặc cho anh em họ Trịnh gọi thức ăn và không hề động đến, chỉ lặng lẽ nâng chén uống cạn, như muốn dùng rượu để dìm chết nỗi sầu muộn trong lòng!
Bàn của ba người nằm cạnh lan can nên Nam Cung Giao có thể ngắm những cụm hoa thược dược dưới vườn.
Dáng thướt tha của loài hoa này gợi cho chàng nhớ đến Trần Lan, người con gái Giao Châu xuân sắc, bạc mệnh!
Chàng không yêu Tiểu Lan, nhưng đặc biệt quí mến vì nàng mang nét đẹp của quê mẹ xa vời. Trong tất cả những nữ nhân chàng đã gặp thì Tiểu Lan giống mẹ chàng nhất, không phái về dung mạo mà vì nàng là người Giao Châu thuần chủng.
Gió xuân ấm áp thổi qua vườn, lay động những bông hoa thược dược vàng rực, khiến chàng tưởng như Trần Lan đang yểu điệu bước qua trước mắt mình!
Một giọt lệ hiếm hoi bỗng lén trào qua khóe mắt chàng trai hay cười!
Hoa thược dược đơn độc ở đầu cành, màu hoa hồng đậm, dáng hoa tha thướt, nên còn được gọi là Kiều Cung, Dư Dung, Diệm Hữu.
Trong vườn sau nhà Nam Cung Giao ở Giang Tây cũng có trồng thược dược, và người trồng chính là cha của chàng.
Nam Cung Bột về già bỗng thích làm vườn, chẳng đi đâu cả. Sau khi giúp vợ bào chế thuốc lão chỉ lo chăm sóc vườn hoa. Lão từng bảo rằng mình yêu hoa thược dược nhất vì chúng cũng đẹp như Trinh Tâm vậy!
Quả thực là loài hoa thược dược rất đẹp và rất đáng yêu, cuối xuân nở hoa, có các loại màu tía, hồng nhạt, trồng, và màu vàng Ià quí nhất!
Nam Cung Bột đã trồng đủ các sắc hoa Thược dược đất Dương Châu đứng đầu thiên hạ, nhưng sau này, Bắc Kinh cũng trồng và rất nổi tiếng!
Thời Đường, Tống, thược dược được gọi là “lam vĩ xuân”. Bởi vì tuần rượu cuối của một tiệc rượu, tửu khách sẽ uống ba chung liền, gọi là “lam võ tửu”. Vì thế, lam vĩ xuân có ý nói Thược Dược là hoa đẹp nở cuối cùng của mùa xuân, và mùa hạ sắp tới!
Do thế Nam Cung Giao đã chọc ghẹo cha:
Đang hồi ức những kỷ niệm cũ, Nam Cung Giao chợt nghe lòng đau nhói khi nhớ lại câu nói của Lê trưởng thôn: “Là dân Giao Châu, dẫu có ngửa tay chịu nhục cũng chẳng mấy ai cho!”
Người Hán tự hào về nền văn hóa lâu đời rực rỡ của mình nên xem thường các dân tộc khác. Ngay người dân Hải Nam như Nam Cung Bột cũng không được xem trọng, huống hồ gì đám dân lưu vong Giao Chỉ?
Bậc hảo tâm sẽ không phân biệt gốc gác kẻ ăn mày khốn khổ, nhưng chính những đồng nghiệp người Trung Hoa sẽ xua đuổi họ ra khỏi những nơi dễ kiếm ăn nhất như danh lam, thắng cảnh, chùa chiền, miếu mạo!
An Nam hiện đã độc lập, dù phải xưng thần và tiến cống Triều Minh ba năm một lần, song không phải ai cũng dám trở về quê cha đất tổ!
Đám dân Giao Chỉ lưu vong đã bị ràng buộc với đất khách bằng những cuộc hôn phối cùng người Hán, hoặc vì sinh kế.
Ngoài ra, họ còn mang mặc cảm vì bản thân, hoặc cha ông đã không tự sát chết theo vua Tùy Quang, mà lại kéo lê kiếp sống nô lệ cho kẻ thù! Và liệu khi họ về lại cố hương có được sống yên ổn, hay lại bị ruồng bỏ và nghi kỵ?
Trung Hoa là mối họa ngàn đời của An Nam, dù đang hòa nhã vẫn luôn phải đề phòng!
Nam Cung Giao giờ đây đã hiểu rõ nỗi khổ của mấy chục vạn đồng bào của thân mẫu, và chính mình, chợt tự nhủ sẽ tận lực giúp đỡ họ. Được như thế thì cuộc đời chàng mới có chút giá trị!
Tâm niệm này đã khiến chàng khuây khỏa, bình tâm ăn uống với hai gã thủ hạ tội nghiệp kia.
Nãy giờ họ chẳng dám nói cười, nhai nuốt cũng cố không gây ra tiếng động!
Nhậu nhẹt như thế thì làm sao ngon miệng được?
Sáng mười sáu bọn Nam Cung Giao tiếp tục cuộc hành trình. Khoảng cách giữa Từ Châu và Tế Nam là bẩy trăm dặm, có thể tạm chia làm hai đoạn:
Đoạn thứ nhất vượt hoàng Hà, đi dọc Đại Vận Hà hơn bốn trăm dặm.
Lúc này mé tay tả của lữ khách chính là vùng Lương Sơn Bạc nổi tiếng.
Sau đó, người ta phải sang bờ Đông Đại Vận Hà, đi nốt quãng đường hơn hai trăm dặm để đến Tế Nam.
Chính đoạn đường thứ hai mới là đáng sợ, cả về mặt địa hình lẫn an ninh!
Quan đạo trải dài trên vùng sơn cước của dãy núi Thái Sơn, nên gập ghềnh, hiểm trở có nhiều đèo dốc, và hai bên là rừng rậm âm u đầy ác thú!
Còn cường đạo thì chắc là chẳng thiếu, nhưng chỉ là những nhóm nhỏ, quen ức hiếp với những lữ khách đơn độc.
Song chàng họ Nam Cung của chúng ta chưa đến đấy.
Trưa ngày hai mươi ba, chàng mới có mặt ở bờ Tây Đại Vận Hà, chờ đò sang bên kia!
Đây là bến đò duy nhất của con đường huyết mạch, nên quán xá rộng rải để đón tiếp những đoàn xe chở hàng hóa.
Ba người bọn Nam Cung Giao vừa ăn được vài gắp thì nghe tiếng vó ngựa, tiếng trục xe kẻo kẹt vọng đến.
Âm thanh ồn ào này chứng tỏ đoàn xa mã ấy khá đông đảo, và hàng hóa chở theo rất nặng nề.
Lát sau, đám lữ khách kia dừng chân trước cửa quán gồm mười cỗ xe song mã và hai trăm quân áp tải. Y phục của họ rất khác hẳn quan quân triều đình.
Lính thì vải, quan thì lụa, song đều có điểm chung là áo dài quá gối, tay áo chật, ống quần rộng.
Bốn vị võ quan áo xanh không mang giáp trụ, đầu trần quấn khăn vành rễ, búi tóc nhỏ lệch hẳn về phía sau chứ không ở gần đỉnh đầu như người Trung Hoa.
Lá đại kỳ vuông vức bằng mãnh chiếu, cắm trên cỗ xe đầu tiên, một mặt có hai chữ Đại Việt, mặt kia là Thiệu Bình, thêu bằng chỉ đen giữa nền vàng. Và trên nóc chín cỗ xe còn lại là những lá cờ trắng nhỏ, viết hai chữ Cống Phẩm.
Nam Cung Giao bồi hồi xúc động, nhận ra đoàn sứ giả An Nam đang trên đường triều cống nhà Minh!
Chàng không thắc mắc về cống phẩm vì đã từng nghe Thất vương gia nói qua.