Nam Cung Giao không tống tiễn vì sợ ánh mắt lưu luyến của Cầm Đạm Thủy. Bọn chàng kéo đến Lâm gia trang để cáo biệt Chu Sơn đảo chủ Lâm Thu Bái.
Không thấy Bảo Thoa, Nam Cung Giao hỏi ngay:
Lâm lão cười khà khà:
Anh em họ Trịnh hăng hái ứng tiếng:
Hai gã cùng Mộc Kính Thanh xuống bếp, để Nam Cung Giao hầu chuyện Lâm Thu Bá.
Lâm lão cười hỏi:
Nam Cung Giao liền kể lại mọi việc, chỉ trừ mối tình nồng cháy với Đoàn qúi phi. May mà chàng đã uống nước của món Hắc Cẩu Bát Bửu Thần, huống nên khí huyết hưng vượng, không hề hốc hác xanh xao vì mười đêm mây mưa nồng nhiệt!
Nam nhân độc thân và nghiện rượu thì thường có tài làm thức nhắm rất nhanh. Chỉ hơn khắc sau, ba món thịt gà rán, luộc, canh và cơm đã được dọn lên.
Giữa bữa, Lâm Thu Bái bỗng thở dài nói:
Nam Cung Giao vội đáp:
Và chàng quay sang bảo anh em họ Trịnh:
Trịnh Tháo cười đanh ác:
Trịnh Mãng tiếp lời:
Nam Cung Giao hài lòng gật đầu, chưa kịp khen họ thì nghe Lâm lão nói:
Lão phu không an tâm về duyên phận của Bảo Thoa nên muốn được ngươi gọi trước một tiếng nhạc phụ!
Nam Cung Giao thấy lão quá thiết tha, không nỡ từ chối, nhưng cố vớt vát:
Tuy nhiên, vãn bối đã lỡ hứa nhường Lâm tiểu thư cho Mộc hiền đệ! Y cũng thầm yêu thương Bảo Thoa từ lâu, do mặc cảm xấu xí nên không dám thố lộ!
Lâm Thu Bái phì cười:
Trịnh Mãng khoái trá cười vang:
Trịnh Tháo đắc ý nói theo:
Nam Cung Giao cũng rợn người thầm nghĩ:
Mộc Kính Thanh thẹn quá hóa giận, vung tay tát vào mặt Trịnh Tháo rồi quay sang nghẹn ngào nói với Nam Cung Giao:
Nam Cung Giao thấy mắt gã ướt rượt, lòng chàng cảm thương vô hạn, liền an ủi:
Kính Thanh mỉm cười tha thứ, và nói:
Nam Cung Giao gật đầu, rời ghế phục xuống lạy Lâm trang chủ chín lạy, miệng gọi:
Lân Thu Bái hoan hỉ cười dài, gương mặt đầy vẻ mãn nguyện, cao hứng.
Hôm ấy, cả đám đều say khướt, chỉ mình Kính Thanh là hơi tỉnh táo!
Sáng hôm sau, Nam Cung Giao và Kính Thanh theo hướng Tây về Bảo Định, còn anh em họ Trịnh đi đường Đông Nam, ghé qua thành Trực Cô (Tức Thiên Tân bây giờ).
Cuối tháng sáu, Nam Cung Giao vượt Hoàng Hà, cùng Kính Thanh đến thành Trịnh Châu vào giữa trưa.
Minh Đế đã tặng riêng cho Đặng Quyết, tức Nam Cung Giao, số vàng vạn lượng, nên chàng có thể yên lòng vào trọ Hà Nam đệ nhất lữ điếm.
Trịnh Châu là thủ phủ của tỉnh Hà Nam, lại nằm giữa giao điểm của hai đường quan đạo chính Bắc Nam, Đông Tây, nên trù phú, thịnh vượng hơn hẳn Từ Châu. Vì thế, chẳng có gì lạ khi giá phòng ở đây cao gấp đôi Tứ Hải đại lữ điếm.
Nghe Kính Thanh đòi hai phòng, Nam Cung Giao định cản nhưng lại thôi.
Nam Cung Giao bắt đầu cảm thấy rằng dường như mình cũng là kẻ ái nam ái nữ. Vì quá yêu mến Kính Thanh chỉ muốn ôm gã vào lòng!
Trong bửa cơm, Nam Cung Giao vui vẻ nói:
Kính Thanh giật mình, trợn mắt vì mắc nghẹn. Gã nốc vội chung rượu lớn, nhăn mặt trách móc:
Nam Cung Giao cười khà khà:
Mệt mỏi vì đường xa nên họ chỉ ăn lấy lệ, lăn ra ngủ đến cuối giờ mùi.
Kính Thanh sang rũ Nam Cung Giao dạo phố:
Nam Cung Giao nhăn mặt:
Kính Thanh phì cười:
Nam Cung Giao gật đầu, bất ngờ phát vào chiếc mông tròn trịa của họ Mộc, rồi cười nham nhở:
Kính Thanh đau đớn xoa chỗ bị đánh, mắt láo liên tìm cách trả đũa.
Gã đổi giọng yểu điệu:
Ánh mắt gã đầy vẻ tình tứ, lả lơi khiến Nam Cung Giao rợn tóc gáy, bối rối lùi xa, miệng ấp úng:
Mộc Kính Thanh ôm bụng cười ngất, và hăm dọa:
Nam Cung Giao cười khổ:
Hai người rời lữ điếm, đi thẳng về hướng Nam, lên tầng chót của Thánh Thủy đại tửu lâu ăn nhậu.
Trịnh Châu là địa bàn của Hồ bang, nên trước khi đến sông Hoàng Hà, Nam Cung Giao và Kính Thanh đã phải cải trang thành hai hán tử rậm râu.
Giờ đây, họ có thể ung dung ăn uống, dù chung quanh có rất nhiều khách võ lâm, vì ngay bàn bên cạnh là bốn gã đệ tử Hồ bang.
Không phải do bọn này dán chữ lên mặt, mà là vì Nam Cung Giao thính tai, nghe được cuộc đối thoại dù rất khẽ, lúc này Kính Thanh đã rời bàn, ôm bụng nhân nhó:
Gã Đường chủ họ Tô kia đắc ý gật đầu, ra vẻ quan trọng:
Nam Cung Giao nghe xong, lòng lo lắng vô hạn, thương cho Tử Phượng và đứa con của mình trong bụng nàng!
Chàng cố bình tâm lắng nghe tiếp, vì gã mặt choắt kia đã lại hỏi họ Tô:
Tô đường chủ lên mặt:
Nam Cung Giao không ưa gì Cung chủ Kim Diện cung Tiền Phong Vân, nhưng dẫu sao lão ta cũng là nhạc phụ, chàng thầm mừng vì đã may mắn nghe được tin tức quí giá này.
Gã thứ ba, có hai nhánh râu cá chốt đểu cáng, chợt xen vào:
Họ Tô gật gù:
Có lẽ đã no say, bốn gã tính tiền rồi đi xuống.
Kính Thanh cũng đã ra đến, mặt phởn phơ, nhẹ nhõm.
Gã cau mày hỏi:
Nam Cung Giao gượng cười, chọc ghẹo gã để giấu diếm tâm sự:
Chắc chư vị độc giả vẫn thường thắc mắc, tự hỏi rằng người thời cổ nói chung, các hiệp khách nói riêng, đã đi vệ sinh như thế nào? Và vì sao Nam Cung Giao lại sợ Kính Thanh chết đuối trong hố xí?
Vậy thì xin chư vị bịt mũi mà đọc đoạn này!
Số là, hố xí có từ rất sớm, tên chữ Hán là xí sở (xí có nghĩa là bên cạnh, hàm ý là nó được làm ở chỗ kín đáo).
Thời Tần, Hán, hố xí thường liền với chuồng lợn, để tích trữ phân bón ruộng! Hố chứa phân rất sâu nên thường có người không cẩn thận, trượt chân ngã xuống đấy mà chết. Trong Tả Truyện, hồi Thành Công Thập Niên có viết: “Tấn Hầu là Tương Thực Trương vào hố xí rơi xuống mà chết!”
Chết thế này quả không thơm tho chút nào cả, và chắc là khó đầu thai vì ngay âm phủ cũng chẳng dám tiếp nhận!
Thời Ngụy Tấn, bọn quí tộc làm hố xí rất sang trọng, hào nhoáng ngay trong nhà, có cả nô bộc túc trực hầu hạ, khiến khách ở địa vị hèn kém ngại ngùng chẳng dám vào, cố mà nín!
Người xưa thường mặc áo dài, vào nhà vệ sinh rất bất tiện, phải cởi ra. Do vậy, đi vệ sinh được gọi khéo là canh y (thay áo).
Và sau khi đại tiện thì họ làm sao?
Xin thưa rằng, các cụ nhà ta dùng một mảnh tre mỏng để lau chùi, dùng xong rửa sạch mà xài cho lần khác! Ôi ghê quá!
Sau khi phát sinh ra giấy, đại đa số người Trung Hoa cổ vẫn cứ dùng mảnh tre, vì giấy quá đắt! Còn giấy viết rồi thì cũng không được đem ra chùi đít, vì phải tôn trọng chữ nghĩa của thánh hiền!
Cho đến thời nhà Nguyên, trong chính sử mới có ghi chép về việc dùng giấy vệ sinh.
Thời Minh-Thanh, cũng chỉ những nhà đại phú, quan quyền và trong các khách sạn lớn mới dám xài giấy xấu. Tất nhiên phải được vò cho thật mềm!
Giờ chúng ta có thể buông tay, trở lại Thánh Thủy đại tửu lâu, nghe Kính Thanh cười khúc khích:
Nam Cung Giao xua tay:
Chàng cố tỏ thái độ vui vẻ để gã nghĩa đệ tinh ranh kia không nghi ngờ, vặn vẹo. Chàng đã quyết mạo hiểm, xâm nhập Tổng đàn Hồ bang trên núi Trịnh Sơn để cứu Tử Phượng, chín phần chết, một phần sống, nên không thể cho Kính Thanh đi theo được. Nhưng phải chờ lấy xong Đại Hoàn đan, Kính Thanh lên đường mang về Bắc Kinh, thì chàng mới quay lại mà ra tay!
Đêm ấy, Nam Cung Giao thao thức mãi, mới ngủ và nằm mộng thấy Đinh Tử Phượng, bụng to vượt mặt đang ngồi dựa vách trong ngục đá.
Lạ thay, nàng lại mỉm cười và bảo:
Nổi xong, nàng biến mất!
Nam Cung Giao kinh hãi gọi vang, chạy nhanh tìm kiếm. Và rồi chàng giật mình tỉnh giấc, mồ hôi toát ra như tắm.
Chàng rời giường, uống một tách trà nguội, ngồi thừ người suy nghĩ.
Chàng nhẩm tính, biết rằng Tử Phượng mang thai đã được bốn tháng rưỡi, trước Sở Nhu nửa tháng. Câu nói lạ lùng của Tử Phượng trong giấc mơ lúc nãy cứ ám ảnh chàng mãi.
Chàng tự hỏi:
Nhưng nghĩ đến việc Tử Phượng vẫn còn sống chứ chưa thác, làm sao báo mộng được, chàng chẳng biết nên tin hay không.
Sáng ra, Nam Cung Giao và Kính Thanh rời Trịnh Châu, đi đến núi Tung Sơn trên đất Đăng Phong!
Trưa hôm sau hai người đã có mặt ở chùa Thiếu Lâm.
Đọc xong thư của Chu Sơn đảo chủ, Bạch Vân phương trượng vui vẻ nói:
Ông vuốt chòm râu bạc trắng như cước ngắm nghía Nam Cung Giao rồi gật gù khen:
Ông nhìn sang Mộc Kính Thanh, chưa kịp nhận xét đã bị gã cướp lời:
Thiền sư mỉm cười:
Ông nâng chung trà mời khách, nhấp một hớp rồi nghiêm giọng:
Kính Thanh mau miệng:
Bạch Vân thiền sư hắng giọng hỏi:
Mộc Kính Thanh đảo nhanh cặp mắt hắc bạch phân minh, ngập ngừng đáp:
Họ Trương tiếp thu được hết sở học của Đông Hải thần tăng, kiếm pháp cực kỳ cao siêu, chưa biết bại là gì!
Gã đổi hơi rồi hỏi lại:
Bạch Vân thiền sư nghiêm giọng:
Đầu năm ngoái, trong đại hội tăng thống toàn quốc vua Minh Anh Tông đã ngỏ ý muốn tặng chùa Thiếu Lâm danh hiệu Hộ Quốc Vĩnh Thọ Thiếu Lâm thiền tự.
Song Đông Hải thần tăng, Phương trượng chùa Phổ Đà đã đứng lên nói rằng Phổ Đà tự mới xứng đáng được nhận tấm bông vàng ấy. Đã nhiều năm nay, tăng lữ chùa Phổ Đà tham gia bảo vệ Đảo Chu Sơn trước sự tấn công của bọn hải tặc Phù Tang.
Còn Thiếu Lâm tự thì chẳng có công lao gì cả!
Thiền sư thở dài, kể tiếp:
Để chứng minh, Thần tăng đã hẹn tháng bảy này cử đệ tử là Trương Sĩ Hạo đến bổn tự so tài? Chỉ cần chùa Thiếu Lâm có đệ tử nào tuổi dưới bốn mươi mà đả bại được Sĩ Hạo thì Phổ Đà tự sẽ không tranh giành danh hiệu vua ban nữa.
Thánh thượng không muốn xen vào chuyện nội bộ của Phật Giáo nên đã chuẩn tấu cuộc phó ước!
Mộc Kính Thanh bực bội nói:
Nam Cung Giao tủm tỉm cười:
Kính Thanh giật mình, nói lảng sang chuyện khác.
Gã giả vờ ngây thơ hỏi:
Bạch Vân thiền sư lắc đầu, từ tốn giải thích:
Ngôi nhà ấy sau này được đặt tên là Quan Âm Bất Khẳng Khứ Phật Viện (Viện Quan Âm không chịu đi).
Có một vị Thiền sư Nhật Bản ở lại với tượng Phật, và chính ông đã xây nên chùa Phổ Đà hiện nay. Vị Thiền sư này tên là Từ Dũ Kỳ, rất giỏi kiếm pháp và nhu thuật của Phù Tang. Ông ta đã nghiên cứu kiếm pháp Trung Hoa, phối hợp với sở học, sáng tạo nên pho Lạc Ca kiếm pháp, truyền lại cho đến bây giờ!
Tóm lại, Phổ Đà tự không có quan hệ gì với bổn tự!
Mộc Kính Thanh gật gù ra vẻ đã hiểu, rồi nghiêm trang nói:
Lời tiết lộ này đã khiến Bạch Vân thiền sư bàng hoàng.
Ông rầu rĩ xác nhận:
Và ông cau mày hỏi:
Kính Thanh ấp úng nói:
Thiền sư mỉm cười:
Nam Cung Giao lên tiếng:
Kính Thanh cười hì hì:
Nam Cung Giao ngớ người:
Kính Thanh đắc ý nói:
Nam Cung Giao ngượng ngùng, lẩm bẩm:
Bạch Vân thiền sư hiền hòa nói:
Riêng pho Kim Cang Phục Hổ Quyền thì ngay trong bổn tự cũng ít người luyện, vì lối đánh của môn võ này cực kỳ cương mãnh, hao tổn sức lực, song lại rất thích hợp với người có tứ chi dài như thí chủ!
Kính Thanh ngắt lời ông:
Bạch Vân thiền sư đăm chiêu lưỡng lự, chậm rãi nói:
Kinh Thanh xua tay:
Nam Cung Giao đang nóng ruột rời đây để lo việc cứu đại Đinh Tử Phượng nên bực bội cằn nhằn Kính Thanh:
Kính Thanh quay lại, buồn rầu bảo:
Nam Cung Giao nhảy dựng:
Kính Thanh hậm hực đáp.
Nam Cung Giao gật gù, nở nụ cười lạnh lẽo:
Bạch Vân phương trượng nghiêm giọng:
Kính Thanh vui vẻ trấn an:
Nam Cung Giao sợ hãi la lên:
Kính Thanh phì cười:
Gã quay sang bảo Bạch Vân thiền sư:
Bạch Vân thiền sư run lẩy bảy, khẽ lẩm bẩm:
Hơn ba mươi năm trước, sư phụ của Bạch Vân là Nhất Hối thiền sư, phụ trách Tàng Kinh các.
Một đêm nọ, có kẻ đã giết ông một cách êm thắm và lấy đi quyển Dịch Cân kinh. Thiếu Lâm tự giấu kín mối nhục này, dốc hết lực lượng ra âm thầm điều tra, nhưng không hề có manh mối!
Bạch Vân thiền sư vốn là trẻ mồ côi, bị quăng bỏ nơi chân núi Thiếu Thất, được Nhất Hối thiền sư nhặt về nuôi dưỡng, dạy dỗ. Do vậy, Bạch Vân vẫn xem Nhất Hối như cha mình. Ông đã rời chùa lang bạt khắp nơi để tìm hung thủ, gặp gỡ Chu Sơn đảo chủ, kết tình bằng hữu.
Sau mười năm truy tìm vô vọng ông trở về chùa khổ công tu luyện, rồi trở thành Chưởng môn phái Thiếu Lâm!
Do quá đau lòng vì cái chết của ân sư, râu tóc và lông mày của Bạch Vân đều bạc trắng, dù tuổi mới sáu mươi lăm!
Nay phát hiện lai lịch kẻ thù, Thiền sư nổi lòng sầu hận, lát sau mới bình tâm được. Ông biết mình không có chứng cứ cụ thể và cũng chẳng đủ bản lãnh báo thù. Song, nếu sử dụng Nam Cung Giao như phương tiện phục hận thì ông cũng chẳng nhẫn tâm.
Thiền sư điềm đạm nói:
Kính Thanh cười xòa:
Bạch Vân thiền sư lắc đầu:
Nam Cung Giao mừng rỡ tán thành:
Bạch Vân thiền sư gật đầu, đi vào trong hậu xá để lấy thuốc.
Ở đây, Mộc Kính Thanh giận dữ đay nghiến:
Nam Cung Giao cười mát:
Kính Thanh tức hộc máu, trợn mắt hỏi:
Nam Cung Giao nheo mắt đáp:
Kính Thanh hài lòng nói:
Nam Cung Giao gật đầu:
Kính Thanh thở dài:
Tóm lại, dường như con người gã không hề có khuyết điểm!
Nam Cung Giao phì cười:
Kính Thanh cười khổ:
Nam Cung Giao ngao ngán:
Kính Thanh ấp úng nói:
Nam Cung Giao giật mình than:
Kinh Thanh hốt hoảng biện minh:
Nam Cung Giao lừ mắt:
Kính Thanh cuống quít đáp:
Nam Cung Giao bỗng nhớ ra một điều:
Kính Thanh nói lí nhí:
Nam Cung Giao than trời:
Kính Thanh hồn phi phách tán, quì này xuống khóc và lạy lục:
Nam Cung Giao phá lên cười sặc sụa, kéo Kính Thanh ôm vào lòng vỗ:
Kinh Thanh điên tiết, há miệng cắn mạnh vào ngực Nam Cung, khiến chàng đau đớn thét lên.
Kính Thanh nhảy lùi, cười đắc ý:
Bạch Vân thiền sư ra đến, trao lọ sành đựng ba viên Đại Hoàn đan và một phong thư cho Kính Thanh.
Hai người quì xuống đảnh lễ rồi rời núi Thiếu Thất, trở về phòng trọ trong thành Đăng Phong!
Sáng hôm sau, ăn điểm tâm xong, Kính Thanh ân cần dặn dò:
Ánh mắt lo lắng của gã khiến Nam Cung Giao áy náy, vội hứa:
Kính Thanh nghiêm nghị nói:
Hai người hẹn gặp lại nhau ở Nam Kinh rồi chia tay.
Kính Thanh đi rồi, lát sau Nam Cung Giao lững thững xách kiếm lần đến chân núi Thiếu Thất. Chàng không thượng sơn mà nhảy lên chặng ba ẩy cổ thụ đầu sơn đạo nằm hát nghêu ngao, chờ Ngọc Diện Thần Kiếm đến.
Trong hai mươi mấy ngày xuôi Nam, những lúc dừng chân dọc đường, chàng đã cùng Kính Thanh luyện tập pho Hư Ảnh Thần Bộ, đạt đến bốn thành hỏa hầu. Với thân pháp kỳ tuyệt này, Nam Cung Giao rất tự tin vào bản lãnh của mình.
Chàng thầm biết ơn Chu Sơn đảo chủ đã cất giùm gánh nặng trong lòng mình.
Mấy tháng nay, tuy không nói ra nhưng tâm hồn chàng luôn chua xót khi nghĩ đến cảnh thảm bại và chết dưới tay Khương Thư Hàn!
Nghĩ đến Bảo Thoa và Tử Phượng, chàng mỉm cười tự nhủ:
Chàng lẩm nhẩm thành tiếng:
Bản cửu chương là do người Trung Hoa sáng tạo ra, đứa trẻ nào bắt đầu học toán cũng đều phải thuộc.
Quá đầu giờ Thìn, Nam Cung Giao nghe tiếng vó ngựa vọng đến, liền nhỏm dậy xem.
Trong đoàn kỵ mã kia còn cách xa đến bẩy tám trượng, song đôi mắt tinh ranh của chàng vẫn nhận ra hai người quen. Đó là Địa Thượng Song Lôi, hộ pháp của Tứ Hải hội, đã từng xuất hiện ở nhà Đặng Kiệm đất Tô Châu!
Hai lão quỷ này có dung mạo cổ quái chẳng thể nào lẫn vào đâu được. Giờ đây, họ đi sau lưng một hán tử Bạch Y dung mạo tuấn tú như Phan An tái thế, chắc là Ngọc Diện Thần Kiếm Trương Sĩ Hạo.
Chẳng khó gì để hiểu rằng Song Lôi là thủ hạ của họ Trương, họ không dám thúc ngựa đi ngang hàng với gã.
Một ý niệm lóe sáng trong đầu Nam Cung Giao:
Chàng vui mừng khôn xiết vì đã nắm nước thóp đối phương. Do tin rằng không ai biết Địa Thượng Song Lôi là người của Tứ Hải hội nên Trương Sĩ Hạo mới đưa họ theo. Xui cho gã là Nam Cung Giao lại vô tình có mặt và khám phá ra chân tướng.
Phía sau thầy trò Sĩ Hạo còn có một toán quân triều đình đông độ ba mươi tên, đang hộ tống một chiếc kiệu phủ sa tanh, có lẽ là Tri huyện Đăng Phong. Lão ta đến đây để giám sát cuộc so tài. Rồi báo kết quả về Bắc Kinh!
Nam Cung Giao nhanh chân chuyền sang cây khác, chạy thẳng lên chùa Thiếu Lâm.
Các tăng lữ gác cổng Tam quan vui vẻ hỏi:
Chàng cười đáp:
Một tăng nhân vội vã vào chiếc khánh đồng, báo hiệu cho người trong chùa biết mà chuẩn bị!
Đang chờ đợi, nên Bạch Vân thiền sư và các cao tăng mau mắn ra sân trước của tòa Đại Hùng bảo điện, ngạc nhiên vì thấy Nam Cung Giao.
Chàng lướt đến vòng tay chào rồi nói:
Thiền sư kinh ngạc trước diễn biến bất ngờ và thuận lợi này, nhíu mày hỏi lại:
Nam Cung Giao mỉm cười:
Bạch Vân thiền sư cảm động đáp:
Các cao tăng đứng sau cũng nhất tề chắp tay vái tạ!
Nam Cung Giao hổ thẹn rảo bước về phía hậu tự!
Lát sau, Ngọc Diện Thần Kiếm Trương Sĩ Hạo và Tri huyện Đăng Phong là Phương Khiên lên đến.
Địa Thượng Song Lôi và toán sĩ tốt đều ở lại chân núi để gữ ngựa, chỉ có gã sư gia của huyện đường đi theo Phương Khiên.
Bạch Vân thiền sư lập tức nhận ra Trương Sĩ Hạo cốt cách phi phàm, thần thái trang nghiêm, đạo mạo, cử chỉ ung dung, đáng mặt nhân tài.
ông cố tìm tướng xấu trên gương mặt đẹp và đoan chính kia mà chỉ hoài công. Phải chăng trong thân thể y còn có ẩn tướng kỳ dị, nếu không thì chẳng thể là kẻ đại ác được?
Ông chợt giật mình với ý nghĩ:
Thiền sư cố dẹp bỏ niềm nghi hoặc, tươi cười mời mọc:
Tri huyện Phương Khiên đã hai lần nhờ Thiếu Lâm tự lo tang ma, cúng kiến cho song thân nên rất kính trọng Bạch Vân phương trượng. Vả lại ông cũng muốn ngôi chùa trong địa hạt mình được sắc phong chứ chẳng phải chùa Phổ Đà xa xôi, lạ lẫm!
Phương tri huyện vui vẻ đáp:
Bạch Vân hài lòng, cùng sáu cao tăng đi trước dẫn đường.
Trương Sĩ Hạo vẫn thản nhiên đi theo, chẳng hề tỏ vẻ nôn nóng. Gã khoan thai bước đi trong bộ võ phục gấm trắng tinh.
Trộng gã xinh đẹp và trang nghiêm như một đóa sen trượng đang trôi!
Lạc Ca, theo tiếng Phạn có nghĩa là Bạch Liên. Trương Sĩ Hạo sinh ra, lớn lên trên núi Lạc Ca, có lẽ vì thế mà nhiễm sắc hương.
Vào đến khách sảnh, Bạch Vân thiền sư giới thiệu sáu cao tăng, rồi hỏi thăm gia cảnh Phương tri huyện, chẳng hề đá động gì đến cuộc so tài.
Thấy Sĩ Hạo vẫn an nhiên, chậm rãi nhấp từng hớp trà thơm, ông thầm khen định lực của y.
Nửa khắc sau, Bạch Vân thiền sư nói với Phương tri huyện:
Phương Khiên cũng là tay nho học tài hoa, và rất mê tranh cổ. Vì vậy, lao đứng phắt lên, mừng rỡ nói:
Thế là lão lôi xộc Bạch Vân phương trượng về tăng xá, cách đấy không xa, bỏ mặc Ngọc Diện Thần Kiếm ngồi lại!
Đến nơi Phương Khiên say sưa ngắm nghía bức tranh, xuýt xoa khen ngợi từng nét thắng bút.
Lão chưa mãn nhãn thì có người thứ ba vào đến.
Chàng trai râu rậm, thân hình cao lớn này mặc bộ võ phục gấm đen thượng hạng, thần thái rất oai vệ. Chàng ta nhìn họ Phương mỉm cười chẳng thèm cúi chào.
Phương Khiên bỡ ngỡ hỏi Bạch Vân:
Bạch Vân chưa biết đáp sao thì chàng râu rậm kia đã lạnh lùng tự giới thiệu:
Và chàng dí mãnh Kim Bài đáng sợ vào mặt Phương Khiên.
Kẻ làm quan, ít người dám tự hào mình tuyệt đối trong sạch, không hề tơ hào công quĩ và của dân. Phương Khiên cũng có chấm mút chút đỉnh nên sợ đến nhũn cả người khom lưng vái dài:
Nam Cung Giao hờ hững đáp:
Họ Phương cung kính nói:
Xin đại nhân chỉ giáo!
Túc hạ đã nhận được công văn truy nã Tứ Hải hội của Triều đình hay chưa?
Phương Khiên cố nén tiếng thở dài, té ra đối phương đến đây vì chuyện này chứ chẳng phải để sách hạch mình!
Lão vội đáp:
Nam Cung Giao cười nhạt:
Chàng bất ngờ quắc mắt hỏi:
Ngón đòn chụp mũ của quan trên đã khiến Phương Khiên tá hỏa tam tinh, mặt tái mét, run giọng mà biện bạch:
Tội tư thông vời cường đạo bị xử rất nặng nên Phương Khiên run bần bật, tự nhủ rằng mình đã may mắn khi chẳng nhận được gì của Sĩ Hạo!
Thực ra, nếu họ Trương đưa ra vài nén vàng, để tranh thủ tình cảm thì lão cũng không chê!
Nam Cung Giao gật gù:
Nói xong, chàng kể sơ qua kế hoạch của mình!
Phương Khiên vâng dạ, vái dài rồi cùng Bạch Vân thiền sư rời phòng!
Phương tri huyện năm nay đã sáu mươi, làm quan được ba chục năm, thạo nghề giữ sắc diện để làm vui lòng quan trên. Dẫu mẹ sắp chết, lão cũng có thể tươi cười đón tiếp Tri phủ Hà Nam, huống hồ gì là việc che mắt Trương Sĩ Hạo?
Thế là Phương Khiên vui vẻ bảo Sĩ Hạo:
Hai phe đi sang mảnh sân rộng cạnh đình Đạt Ma. Đây là nơi luyện võ hàng ngày của đệ tử Thiếu Lâm.
Ngoài sư sãi, trong chùa lúc nào cũng có gần ngàn đệ tử tục gia, từ bốn phương đến học võ. Thiếu Lâm tự là trường dạy võ lớn nhất, nổi tiếng nhất Trung Hoa!
Nền của sân luyện võ được lát bằng những viên đá núi. Sau mấy trăm năm, bàn chân người đã làm mòn lớp đá sù sì, có chỗ còn lõm hẳn xuống, trở thành điểm đánh dấu đường lối bộ pháp cho những người mới nhập môn!
Lúc này, trên sân tụ tập rất đông người. Họ cổ vũ cho hai kẻ đang đánh nhau chí chóe!
Một bên là nhân sư trọc đầu, tuổi gần bốn mươi, to lớn, vạm vỡ, sử dụng trường côn. Bên kia là một tăng nhân cao lớn, y phục thùng thình, lem luốc, râu ria rậm rạp và mái tóc bù xù xoã dài.
Thật khó xác định người này có phải hòa thượng hay không?
Song vì gã mặc tăng bào xám, nên chúng ta cứ xem như sư sãi!
Gã ta không xử dựng vũ khí mà ngang nhiên dùng quyền cước chống cự với cây côn gỗ cứng rắn, đen bóng.
Pho quyền pháp mà nhà sư tóc dài thi triển chính là Kim Cương Phục Hổ quyền của Thiếu Lâm.
Đôi tay dài thượt của gã đôi lúc biến thành trào hổ, dũng mãnh uy hiếp lồng ngực đối phương. Còn hai cước thì liên tục búng ra những đòn đá chớp nhoáng, tấn công từ bụng đến gối kẻ địch. Quyền phong vù vù xé không gian, biểu hiện một sức mạnh phi thường!
Nhà sư đầu trọc cũng lợi hại không kém, trường côn vun vút bay lượn, đòn nào cũng nặng nghìn cân!
Thế mà, nhà sư toc dài vẫn đủ sức vừa đánh vừa la hét:
Té ra nhà sư không tóc là Đại Lực, vì ông ta khỏe như voi, còn người tóc dài, râu rậm là Sa Di Vô Dụng.
Thấy Phương trượng Bạch Vân và khách xuất hiện, Vô Dụng tấn mạnh một trảo, đánh bạt trường côn ra rồi nhảy lùi, quì xuống gọi:
Đại Lực cũng quì lạy:
Vô Dụng nghe xong, bất ngờ vung quyền đấm vào vai, khiến đối phương lăn ra!
Đại Lực giận dữ thọc cước trả đũa, song Vô Dụng đã nhảy lùi cười hể hả:
Đại Lực chụp côn nhảy đến đánh liền. Gã không còn nương tay nên Vô Dụng liên tiếp phải khoá hậu, miệng oang oang kêu đau!
Quần tăng đứng ngoài ôm bụng cười ngất trước cảnh náo nhiệt. Đất Phật trang nghiêm, có bao giờ họ được chứng kiến màn kịch khôi hài thế này đâu?
Bạch Vân thiền sư cũng cười, nhưng phải bóp bụng quát:
Ông quay sang nhìn Sĩ Hạo, hài lòng khi thấy ánh mắt gã có lửa giận.
Họ Trương biết phái Thiếu Lâm bày trò hí lộng mình, nhưng không đoán ra chủ ý. Gã cố nhẫn nhục vì tin vào bản lãnh siêu việt của mình.
Trong lúc Bạch Vân rời chỗ, đi quở mắng hai đệ tử thì Phương tri huyện trổ tài cài bẫy:
Phía xa xa, cái giọng oang oang của Vô Dụng cứ vang lên:
Nói dứt lời, gã lén đá vào mông Đại Lực rồi bỏ chạy!
Đương nhiên, Đại Lực lại rượt theo!
Bạch Vân thiền sư bối rối, thở dài tỏ vẻ bất lực. Người ngoài sẽ tưởng ông niệm tình sư đệ đã chết nên không dám nặng tay với gã sư diệt điên khùng!
Thực ra, ông bối rối vì không quen diễn kịch, và thầm hổ thẹn.
Ở đây Phương tri huyện nhẹ nhàng thọc mũi đao mưu kế vào sâu hơn:
Năm ngoái tiên mẫu từ trần, bổn chức đến nhờ họ lập trai đàn, ma chay thì họ từ chối khéo rằng mình là Thiền Tông chứ chẳng phải Tỉnh Thổ Tông!
Trương Sĩ Hạo dù là kẻ cơ trí bậc nhất võ lâm cũng phải lầm trước thủ đoạn của một lão quan già! Quan trọng còn khốc liệt hơn chốn giang hồ bội phần!
Trương Sĩ Hạo suy nghĩ một lúc, gật đầu đồng ý.
Phương tri huyện cao giọng gọi:
Bạch Vân thiền sư liền quay lại.
Hai đệ tử cứng đầu kia cũng lót tót treo sau!
Ông ngượng ngùng nói:
Sĩ Hạo điềm đạm đáp:
Không hiểu sao, Bạch Vân thiền sư lại nghe rợn người! Ông thở dài, ra hiệu cho Đại Lực, lòng lo lắng không nguôi!
Vì thanh danh của Thiếu Lâm, ông mong mỏi Đại Lực thắng trận, không cần đến bàn tay của Nam Cung Giao. Song giờ đây, ông linh cảm rằng mình đã quá cố chấp! Đại Lực không những thua mà còn có thể tàn phế hay bỏ mạng, dưới lưỡi kiếm của Sĩ Hạo.
Gã không còn là người khi đã hòa lẫn với thanh thép lạnh lẽo trong tay! Và thép thì không có lòng nhân!
Thay vì dặn dò đệ tử phải tận lực thắng, Thiền sư lại nghiêm giọng bảo:
Đại Lực là con của đôi vợ chồng tiều phu dưới chân núi Thiếu Thất. Năm gã mười tuổi, song thân bị cây ngã đè chết, được Bạch Vân thiền sư đem lên núi nuôi dạy.
Đại Lực tuy lỗ mãng nhưng rất hiếu thuận, chẳng bao giờ dám trái ý sư phụ.