Thơ rằng:
Lưu lạc đừng than thở
Tài cao vận hội mở
Loan phượng đậu đài cao
Khổng tước trên tranh vẽ
Ngọc lành nên duyên đẹp
Đàn lạ thành khúc hay
Sống mái rồi gặp gỡ
Rồng mây sẵn có ngày.
Thế gian hợp tan vốn ở duyên may phận rủi, cố mưu đồ thì thất bại, chẳng để tâm thì lại nên duyên phận. Đường Công vốn là bề tôi giỏi của nhà Tùy, Đậu phu nhân cũng dòng dõi nhà Chu. Khi vua Tùy cướp ngôi nhà Chu, phu nhân mới bảy tuổi, mà đã nhiều phen vật vã trên giường than thở: "Thân này sinh ra sao không phải là nam nhi, để cứu nạn cho cậu, dựng lại nhà Chu!". Một cặp vợ chồng như thế, nhất định con cái sẽ hơn người.
Lý tiểu thư, con gái đầu của Đường Công và Đậu phu nhân, năm nay tuổi vừa mười sáu, rất giống Tôn phu nhân của Lưu Huyền Đức, em gái Tôn Quyền thời Tam Quốc, chẳng ham thêu thùa kim chỉ, riêng thích giương cung múa kiếm. Vợ chồng Đường Công thấy tính tình con gái khác thường như thế, nên cũng lưu tâm tìm một chàng rể giỏi giang. Kẻ dạm hỏi không thiếu, Đường Công đều chê là phường tục tử, chưa thấy đám nào vừa ý. Chuyện gia thất của Lý tiểu thư vì vậy vẫn còn canh cánh bên lòng.
Giai nhân theo việc anh hùng
Tuổi vừa đôi tám, bạn cùng cung thương
Phượng loan chẳng chịu thói thường
Lẽ nào đứng sánh với phường quạ đen.
Hàng tháng nay, Đường Công cả ngày ngồi nhàn ở chùa Vĩnh Phúc, cho nên dẫu có lo toan chuyện gì, cũng là chưa phải lúc hành sự. Bạn bè không ai, thỉnh thoảng lọt bên tai vài lời qua lại thì thầm của người nhà chùa, của bọn gia đinh. Đường đường là một bậc đại nhân, nhất cử nhất động đều có người phục dịch, hầu hạ tận nơi, sư trụ trì Ngũ Không, ngày ít nhất cũng một lần tới thăm hỏi, hầu chuyện. Khoảng vài ngày một lần, nhà chùa lại đèn hương, trống mõ rộn rã, Đường Công thong thả dạo quanh, xem cảnh tăng ni đi lại, công việc; quan sát phép tắc nhà chùa, nghe cầu kinh, xem sách Phật. Thấp thoáng từ xa, Đường Công vẫn nhận ra những ánh mắt tò mò, chăm chú của các nhà sư trẻ, của các chú tiểu. Dạo chán, Đường Công lại tìm đến sư trụ trì nói chuyện. Đường Công đi trước Ngũ Không theo bên, trên những lối vườn rải đá, che kín bóng cây để đến dãy nhà phía đông cửa tam quan. Đường Công nói:
Sư trụ trì thưa:
Đường Công thấy Ngũ Không ân cần liền bước vào phòng rộng, không một chút bụi bám, vài cửa sổ nửa khép nửa mở. Trà nước xong, Ngũ Không đứng dậy, mở rộng cửa sổ khiến Đường Công nhìn rõ bảo tháp ngoài vườn, vàng son rực rỡ chói mắt, nổi giữa vườn cây xanh, lấp loáng nắng trời, thật là những cảnh đẹp hiếm có. Nhìn lên bình phong trước tháp, thấy đề một câu dối.
Tháp quý chọc trời, đưa mắt giang sơn, một vùng thanh tĩnh
Đèn vàng thay nguyệt, mười phương thế giới, đâu cảnh sáng trong.
Dòng lạc khoản ghi rõ: "Sài Thiệu Huân, người Phần Hà, trai giới kính đề".
Đường Công thấy lời lẽ hiên ngang, chữ viết thoáng đạt, gật gù khen, rồi hỏi sư trụ trì:
Ngũ Không thưa:
Đường Công gật gù, đứng dậy:
Về đến phòng mình, trăng vừa nhô khỏi núi xa, lặng lẽ soi qua thảm lá. Đường Công vì ngổn ngang tâm sự, công việc trong triều ngoài trấn, muôn chuyện phải theo dõi, toan tính, hành động, nay bất ngờ phải ngồi chờ ở giữa cánh rừng xa vắng, nên giấc ngủ càng khó đến. Đường Công lại trở dậy, tìm đến phòng Ngũ Không, gõ cửa:
Ngũ Không vội thưa:
Cửa mở, Đường Công vào phòng, tiếp:
Ngũ Không bàn:
Đường Công tán đồng:
Ngũ Không gọi chú tiểu cầm đèn đi trước.
Đường Công gàn:
Ngũ Không thưa:
Đường Công đáp:
Ngũ Không đi trước, Đường Công theo sau, men theo đường trúc quanh co, ra khỏi một cổng nhỏ phía nách chùa thì tới sườn núi. Vầng trăng hiện rõ giữa không trung, không cây che, chẳng mây khuất. Bên dưới đồi núi, nhà cửa nhấp nhô, núi cao thấp thoáng, rừng cây miên man, người không cảnh vắng, tiếng chó sủa từ thôn xa vẳng lại, như điểm thêm sự thanh vắng của cảnh đất trời. Đường Công nhìn ngắm một hồi, đang định quay về thì bỗng thấy trong đám trúc phía tay phải, ánh đèn le lói, nghe như có tiếng đọc kinh, bèn hỏi:
Ngũ Không thưa:
Đường Công gật đầu, nhưng đến dãy nhà phía tay phải lại hỏi:
Ngũ Không đáp:
Nghe giọng đọc trong trẻo, Đường Công dắt tay Ngũ Không, nhẹ nhàng bước tới thư phòng, nhìn qua cửa sổ thấy một thanh niên, mặt mũi khôi ngô da trắng như thoa phấn, môi đỏ như bôi son. Kiếm quý đặt ngang bàn, thánh thót đọc một chương nào đấy của sách binh thư Ngô Khởi, hoặc Tôn Vũ mà Đường Công cũng chưa kịp nhận ra. Đọc xong, thanh niên lại lấy kiếm múa vài đường, xem như xung quanh không có ai. Đặt kiếm xuống bàn, thanh niên cao giọng gọi:
Rồi cất giọng sang sảng ngâm:
Anh hùng đầy uất khí
Cô độc biết hỏi ai?
Cánh bèo là tri kỷ
Vỗ gươm than ngắn dài.
Đường Công nghe xong, lặng lẽ trở ra, lòng mừng thầm nghĩ: "Thời bình chuộng văn, thời loạn chuộng võ, giờ mà ngồi đọc "Tử viết,Thi vân" 1 thì phỏng ích gì. Phải là tài kiêm văn võ, lên ngựa đuổi giặc xuống ngựa thảo hịch, mới xứng với con gái ta. Có việc cần kíp, chàng rể loại này còn có thể giúp một tay!".
Gần đến phòng mình, Đường Công nói với Ngũ Không:
Ngũ Không nghiêng mình thưa:
Đường Công đáp:
Đường Công về đến phòng, sư cụ cũng lui gót.
Hôm sau, trời vừa rạng sáng, sư cụ Ngũ Không vì đang có việc phải lo, đã vội trở dậy, rửa mặt thay áo, đến phòng Sài Tự Xương.
Công tử hỏi:
Sư cụ đáp:
Sài Công tử hỏi:
Sư cụ đáp:
Công tử tiếp:
Sư cụ đáp:
Công tử nói:
Sư cụ đáp:
Công tử tiếp:
Sư cụ đáp:
Công tử lại hỏi:
sư cụ đáp:
Công tử vội hỏi:
Sư cụ đáp:
Công tử cười thưa:
Sư cụ tiếp:
Công tử đáp:
Sư cụ khuyên:
Công tử nhận lời:
Công tử mặc áo lễ, sư cụ dẫn lên Phật điện bái kiến. Đường Công thấy công tử quả thật là:
Mày như trăng khuyết, một tựa sao đêm
Mũi tạc thợ trời, răng như ngọc dát
Dáng thần lanh lẹ, ngoài trắng cốt trong
Khí phách hiên ngang, rồng bay hổ nhảy
Kiếm ẩn cung tàng, ra hình khanh tướng, chửa đến thời
Giỏi văn tài võ, thật kẻ anh tài, chưa gặp hội.
Đường Công lấy lễ chủ khách ra tiếp. Sài Tự Xương hai ba lần khiêm nhường, xin lấy lễ thấy trò ra đãi. Đường Công hỏi chuyện gia thế, đủ vẻ gần xa. Tự Xương thưa gửi đâu ra đấy, tiếng như ngọc rót.
Đường Công thấy thế bằng lòng lắm, giữ lại uống trà xong mới cho về, còn mình thì tìm đến phương trượng nói chuyện cho phu nhân hay. Phu nhân bàn:
Đường Công đáp:
Phu nhân cãi:
Đường Công bằng lòng.
Nói xong, Đường Công đi khỏi phương trượng, phu nhân cũng ra phòng ngoài, tiểu thư đón vào. Phu nhân đem chuyện Đường Công kén Sài Tự Xương làm rể kể tỉ mỉ. Tiểu thư ngẫm nghĩ hồi lâu rồi nghiêm trang thưa:
Phu nhân cướp lời:
Tiểu thư thấy mẹ nói thế, khẽ cười thưa:
Phu nhân thấy con nói thế, ra tìm kể lại với Đường Công.
Tiểu thư nghe mẹ nói xong, băn khoăn trăm đường. Cũng muốn đi nhìn trộm Tự Xương xem mày mặt thế nào, nhưng lại thấy không phải phép, đúng lễ nên không dám, phần vẫn băn khoăn lỡ làng chuyện cả đời, nên phân vân không định được điều gì. Bỗng thấy Hứa Thị, vú nuôi bước vào, đến trước tiểu thư hỏi:
Tiểu thư đáp:
Hứa Thị thưa:
Tiểu thư gật đầu khen hay. Chính là:
Bạch lạp sáng bừng soi yến tước
Ngọc tiêu vang điệu họa uyên ương.
° ° °
Lại nói Sài công tử từ hôm gặp Đường Công, thấy Đường Công đối xử với mình rất tử tế, vừa khiêm tốn, vừa chân tình nên trong lòng rất vui, chuyện nhân duyên, bởi chưa thấy tiểu thư lại chả biết việc sẽ đến đâu, tự mình không thể quyết đoán, nên lại càng thắc thỏm. Lúc ấy đang ngồi xem sách dưới đèn, công tử bỗng nghe thấy bên ngoài có tiếng ho khẽ, rồi mở cửa ra, ngẩng đầu nhìn lên thì thấy một phụ nữ mắt to, lông mày rậm, người cao, chân to, tuổi chưa nhiều. Công tử đứng dậy hỏi:
Người này đáp:
Công tử nghe xong, khẳng khái đáp:
Hứa Thị bằng lòng, quay trở ra.
Họ Sài ăn tối xong, nghe ở ngoài, lính tuần điểm canh lần thứ nhất, ánh trăng như sáng hơn mọi ngày. Đọc được mấy hàng binh thư, lại ra sân nhìn trăng, bất giác trống canh đã điểm lần hai, công tử thầm nghĩ lời nói bảo mẫu chưa chắc đã đáng tin, đang định quay trở vào lên giường, bỗng có tiếng ho khẽ, rồi thấy bảo mẫu đứng từ đằng xa, vẫy tay làm hiệu. Công tử gọi Sài Báo, mở hòm lấy ra chiếc áo chẽn thêu rồng năm màu, lại lấy thắt lưng lụa quấn chặt, đeo bảo kiếm, rồi bảo Sài Báo khóa cửa phòng, cả hai cùng đi theo bảo mẫu ra phía vườn rau. Vốn ở sau Quan âm các, có một vùng đất hoang rộng, xa tít đầu kia là ngọn núi đất, men theo sau Quan Âm các là một dãy tường thấp, bên nách có một cửa ra vào nhỏ. Công tử trông một hồi, đang định đi qua cửa, thì Hứa Thị ngăn lại:
Công tử nghe theo, rĩ tai Sài Báo mấy câu. Chỉ thấy một cô gái tiến lại, tóc đen búi cao, mặc áo thêu ngắn, gài thoa vàng, những chuỗi ngọc rũ che kín mặt, ống tay áo bó sát, cầm một lá cờ nhỏ, dừng lại trên một gò đất. Công tử hỏi:
Hứa Thị đáp:
Lời chưa dứt, chỉ thấy giáo nữ vẫy cờ lệnh, đội nữ binh xuất hiện, một người y phục màu đỏ, đi với người y phục màu trắng, một người y phục màu xanh, đi với người y phục màu vàng, đều chít khăn, áo gọn gàng, tay cầm giáo dài sáng loáng, tất cả có một trăm hai mươi người. Đội bên hữu kéo đi, đội bên tả quay lại, bày thành hình chữ nhất, Hứa Thị hỏi:
Công tử đáp:
Lại thấy nữ giáo phất cờ hiệu, đám nữ binh quay thành bốn vòng, phân làm năm nhóm, mỗi nhóm thêm bốn người, vác giáo đứng kề phía sau. Công tử đứng nhìn kỹ, chỉ thấy:
Một điểm đỏ, một điểm trắng
Chẳng khác gì tuyết trắng hoa hồng phơi phới
Một vòng xanh, một vòng vàng
Chẳng khác oanh vàng thúy biếc chập chờn
Đừng lầm Tôn Võ Tử dạy nữ binh
Những tưởng Cố phu nhân dàn trận thế.
Thấy đội nữ binh hình chữ nhất yên vị, Hứa Thị hỏi. Công tử cười trả lời:
Hứa Thị lại hỏi:
Công tử đáp:
Công tử liền nịt chặt áo, tuốt bảo kiếm giơ cao bước tới. Hai hàng nữ binh thấy thế, giáo dài múa tít, ánh thép loang loáng đâm tới, công tử vội múa kiếm đỡ. Năm đội nữ binh, thấy công tử xông về phía đông, họ lại kéo tới ngăn lại, không được, công tử lại quay sang phía tây, họ đã xông về phía tây trước ngăn lối. Công tử trù trừ nghĩ cách thoát khỏi cảnh tuyệt lộ, làm sao đánh lui được 120 nữ binh này, đem kiếm quý ra đương, nhưng sợ tổn thương thiện ý đối phương.
Thêm hai đội vây đến, hai nữ binh đi đầu, cầm dây lụa đỏ dài, chờ lúc công tử quay sang phía sau, tung dây lụa ra, nhằm thẳng đầu rơi xuống. Trước nguy cơ bị giải lụa cuốn chặt, công tử chỉ còn cách vung kiếm múa tít đỡ nhưng vẫn không tài nào thoát khỏi trùng vi. Công tử nhìn ra xung quanh, thấy từ cửa sổ đằng xa, treo hai cây đèn lồng màu hồng rực rỡ, ở giữa ẩn hiện một khuôn mặt tựa phật Quan âm tạc bằng ngọc trắng, chỉ thấy nửa phần trên của thân hình.
Bấy giờ nữ giáo vẫn đứng ở gò đất ban đầu, vội vã phất cờ lệnh về phía sau, từ phía đó liền xuất hiện bốn năm mươi nữ binh mặc toàn áo trắng, vác giáo dài, ùn ùn kéo ra. "Ngũ hoa trận" bỗng biến thành "Lục hoa trận". Công tử lại múa tít bảo kiếm, che chở toàn thân, vừa lui về phía viên môn để mong thoát khỏi vòng vây. Sáu đội nữ binh, nhất tề như bay tới, bốn năm giải lụa tung ra, khiến cho tầng không nhằng nhịt muôn màu. Tình thế thật nguy nan, công tử vội quát lớn:
Sài Báo nghe gọi, rút ngay trong ống tay áo một chiếc pháo hoa, đánh lửa châm ngòi, rồi nhằm đám nữ binh mà ném tới. Bọn nữ binh nghe trên đầu mình một tiếng nổ lớn, lửa khói mịt mù, thuốc pháo nồng nặc. Sài công tử đang chăm chú nhìn, chỉ thấy tiếng gió rít, quay lại, một mũi tên bay tới, cắm nhẹ lên vành khăn. Công tử giơ tay rút nhẹ, thì ra "Hoa lệnh tiễn , không bịt nhọn, lại có buộc một quả cầu ngũ sắc xinh xắn. Nhìn về phía chùa, thì giai nhân đã biến mất, hai cánh cửa sổ đã đóng chặt. Quay lại đám nữ binh, thì họ cũng đã rút từ lúc nào, hương thừa quanh quất. Lắng nghe ra, trống canh tư đã điểm. Chủ tớ cả hai, vội quay về thư phòng, lăn ra ngủ kỹ.
Mặt trời đã lên cao, Sài công tử vẫn còn đang đóng cửa ngủ, thì sư trụ trì Ngũ Không đã tới gọi. Sài công tử bàng hoàng ra mở cửa, sư trụ trì hân hoan bảo:
Sài công tử cha mẹ đều mất sớm, ruộng vườn nhà cửa đều giao cho họ hàng cai quản, không một chút vướng bận gì, liền theo Đường Công về Thái Nguyên làm lễ thành thân. Về sau, khi Đường Công khởi binh đánh Trường An, có cả một đội nữ binh, đó chính là quân bản bộ của vợ chồng họ Sài.
Trời vì họ Lý gây đế nghiệp
Người xui hào kiệt hóa đông sàng.
° ° °
Không nói chuyện Đường Công về Thái Nguyên, lại tiếp chuyện Thúc Bảo đuổi ngựa theo kịp Phàn Kiến Uy. Phàn hỏi:
Thúc Bảo trả lời cặn kẽ, Phàn không giấu nỗi kinh ngạc. Ngày hôm sau, ăn sáng xong, chia đôi hành lý, mỗi người giải hai phạm nhân, rồi người nào đi đường người ấy, Phàn về Trạch Châu, Thúc Bảo tới Lộ Châu, Thúc Bảo tìm đến quán trọ ngay trước cổng phủ, buộc ngựa vào cọc, đưa hai phạm nhân vào, nói với chủ quán:
Chủ quán đáp:
Thúc Bảo lên phòng trọ ngồi, dặn chủ quán:
Chủ quán làm vẻ chiếu cố:
Thúc Bảo đáp:
Chủ quán cầm đèn, đem hành lý vào, bày trà nước, rồi cơm rượu, ân cần đứng bên rót rượu, cười nói vui vẻ:
Thức Bảo đáp:
Chủ quán đáp:
Thúc Bảo nói:
Chủ quán cười đáp:
Thúc Bảo nói:
Tiểu Nhị đáp:
Thúc Bảo nghe xong những lời dài dòng rồi đi ăn chiều, sau đó đóng cửa ngủ kỹ.
Sáng hôm sau, Thúc Bảo dậy rất sớm, rửa mặt, thay quần áo, chuẩn bị đầy đủ, vào phủ đường nạp công văn có gắn niêm phong cho Sái thái thú, giải phạm nhân vào. Thái thú sai mở công văn xem xong, truyền mở công khóa, hẹn Thúc Bảo ngày mai vào lĩnh công văn trở về. Rồi giao hai phạm nhân xuống nhà ngục thu nhận, Thúc Bảo mới xách gông khóa về quán trọ, ăn cơm trưa, ra phố xem chợ búa, chùa chiền, trời vừa kịp tối, thế là hết ngày hôm đó. Ngày mười bảy vậy.
Sáng ngày mười tám, Thúc Bảo vào phủ lĩnh công văn, lúc này mặt trời đã cao bằng ba cây sào, vào khoảng giờ tỵ 5, cổng phủ vẫn chưa mở, người ra vào vẫn chẳng thấy một ai, các dãy nhà cửa, công đường vẫn lặng như tờ. Gần cổng rất nhiều quán rượu lớn hôm qua còn thấy đông đúc huyên náo, hôm nay cũng thấy đóng cửa, ngay cả cánh cửa treo ở cổng phụ cũng chẳng thèm kéo lên. Có một quán rượu, cửa nửa đóng nửa mở, Thúc Bảo bước vào thấy cạnh quầy, mấy gã thanh niên đang cười đùa, Thúc Bảo chắp tay hỏi:
Một thanh niên trong đám đông hỏi:
Thúc Bảo đáp:
Thanh niên kia tiếp:
Thúc Bảo hỏi:
Thanh niên kia đáp:
Thúc Bảo hỏi tiếp:
Thanh niên kia đáp:
Thúc Bảo thầm nghĩ: "Đây chính là Lý đại nhân mà mình đã cứu thoát bọn cướp ở Đồng Sơn đây". Chàng hỏi tiếp:
Thanh niên kia đáp:
Thúc Bảo nghe thấy thế, nghĩ cũng chẳng còn hỏi gì thêm nữa, quay ra về quán trọ, ngày ba bữa ăn rồi chờ đợi quan thái thú trở về.
Người ta ở nhà mình, ngày ngày vô sự, ăn rồi là xong, nhưng Thúc Bảo là khách trọ, cơm hàng cháo chợ, đã hơn mười ngày trời, Vương Tiểu Nhị phải cung đốn. "Thái Nguyên Vương điếm" lại là nơi bọn công sai lui tới nhiều hơn cả, lúc này quan phủ không làm việc, chẳng ai đến công đường làm gì, cho nên biển hàng, đèn lồng ngoài cửa, Tiểu Nhị cũng chẳng buồn treo. Tiểu Nhị bàn bạc với vợ ở nhà trong:
Vợ Vương Tiểu Nhị là Liễu Thị, vốn hiền lành, biết điều, lại chịu khó, yên lặng nghe chồng nói xong mới nhẹ nhàng khuyên giải:
Hai ngày nữa nặng nề qua đi. Tiểu Nhị dành phải tìm cách hỏi tiền ông khách trọ. Chờ đến lúc Thúc Bảo sắp ăn trưa, Tiểu Nhị chưa dọn ăn vội, mà tự mình bưng một ấm trà nóng vào phòng, rồi quay ra, đứng dựa vào cửa sổ, cười nói với Thúc Bảo:
Thúc Bảo đáp:
Tiểu Nhị làm ra vẻ từ tốn:
Thúc Bảo đáp:
Tiểu Nhị chỉ còn chờ đến thế, chạy ngay vào phòng, mở hòm ở đầu giường Thúc Bảo, lôi ngay gói hành lý ra, bưng cẩn thận đến trước mặt Thúc Bảo. Rõ là: "Đầu giường tiền của hết, tráng sĩ ngẩn ngơ hồn".
Lúc này Thúc Bảo trong lòng thầm nghĩ: "Tiếng tăm của cải đáng ra là không bao giờ nên rời khỏi thân mình. Bây giờ bao nhiêu tiền đi đường, đều để Phàn Kiến Uy mang đi Trạch Châu cả, làm thế nào bây giờ?".
Vì sao có chuyện tiền bạc của Thúc Bảo lại bị Kiến Uy mang đi? Vốn cả Tần lẫn Phàn, đều là những kẻ hào kiệt ở phủ Tế Châu, khi cả hai được điều đi giải bốn tên phạm nhân đến Trạch Châu, Lộ Châu xung quân, lệ phí đều nhận ở viên thư lại coi kho trong phủ, viên này cũng vốn biết tình thân giữa Phàn với Tấn, nên y cân bạc luôn một lần phát cả cho Phàn. Sau mấy ngày đi cùng, đến chỗ phải chia hai, hành lý, công văn thì nhớ chia cẩn thận, nhưng đến tiền bạc thì lại quên không chia, vì vậy, bao nhiêu tiền đi đường Phàn mang đi Trạch Châu mất cả. Giờ lục tìm đồ đạc trong túi, Thúc Bảo mới nhớ ra, lại đã trót nói với Tiểu Nhị, giờ biết làm thế nào, Thúc Bảo lúng túng, máu dồn cả lên mặt đỏ bừng.
Tiểu Nhị thấy Thúc Bảo cứ khoắng tay mãi trong túi, y sinh nghi tự hỏi: "Không biết trong đó tiền nhiều ít, ông ta đưa ình bao nhiêu, mà mãi không thấy lấy ra được thế kia?". Không rõ rồi Thúc Bảo làm thế nào để qua được chuyện này với Vương Tiểu Nhị, xin xem hồi sau phân giải.