Từ rằng:
Đó lại đây
Tưng bừng nước mắt
Kể tội đầy
Đặt giàm bủa lưới
Khảo tra tàn khốc
Giữa đất lòng son gan một lá
Bên trời lệ máu sầu muôn hộc.
Thấu thiên đình
Oán cừu trả sạch
Ngẫm cơn giận rượu say bầu dốc
Cảnh điện đài ngọn đuốc giơ cao
Nhìn ra gió gác trang lầu
Tột tình kể hết trước sau rạch ròi
Rồi ra ly biệt đôi hồi
Gió đông đổi lấy lòng người Thượng Lâm,
Đủ rồi hai chữ song tâm...
Theo điệu "Mãn gian hồng"
Từ xưa đến nay, kẻ sĩ chết vì nghĩa, kẻ hiếu sắc chết vì tình, bọn bỏ mạng vì tình thì vô số, còn chết vì nghĩa thì trong một trăm, không được một hai người. Trước tiên phải kể đến Hoàng Diễn người thời Xuân Thu, tự mỗ bụng mình để nhét lá gan của Vệ ý Công vào; thêm bề tôi của nước Tề là Vương Xúc, nghe tin Tề Mẫn Công chết, treo cổ lên cây mà tự tử. Những người chí hướng khác thường như thế trong thiên hạ, không nhiều.
° ° °
Nay nói chuyện thái hậu ở trong cung truy hoan hưởng lạc, chẳng mấy chốc mà tiết thu đã tàn, trời đông sắp đến. Thái Bình công chúa, con gái yêu của thái hậu, vốn cũng khuynh quốc khuynh thành phong tư yểu điệu, tính tình nhẹ nhàng, được thái hậu yêu chiều hết mực, lúc đầu lấy Tiết Thiệu, chưa được hai ba năm thì Thiệu chết trở về cung, không chịu yên phận, chạy đông tìm tây. Thái hậu sợ xảy ra chuyện không hay, lại đem Thái Bình gả cho đại phu Vũ Du Kỵ.
Hôm ấy Vũ Tam Tư dạo chơi trong ngự uyển, thái hậu nói:
Tam Tư thưa:
Thái hậu phán:
Tam Tư thưa:
Thái hậu cười:
Tam Tư cũng cười:
Thái hậu đưa mắt giận dữ nhìn Tam Tư rồi quay về cung, liền truyền gọi Quy Nghĩa Vương Trần Thạc Trinh vào triều, đem mọi chuyện kể hết, sai Thạc Trinh dùng pháp thuật để các cây trong vườn ngự đều ra hoa ngay khoảnh khắc, tỏ rõ điềm lành. Thạc Trinh thưa:
Thái hậu liền giở giấy vàng, viết ngay:
Ngày mai chơi vườn ngự
Ra lệnh cho xuân hay,
Nội đêm nay hoa nở
Không đợi gió cùng mây.
Thái hậu viết xong, đưa cho Thạc Trinh, Thạc Trinh lại viết thêm một đạo hịch, từ giã thái hậu, vào trong vườn làm bùa phép, rồi hỏa thiêu cho thần hoa. Thái hậu lại truyền chỉ cho Quang lộc tự chính khanh Tô Lương Tự, sắp sẵn yến tiệc trong vườn ngự vào ngày mai.
° ° °
Lại nói chuyện Tam Tư về nhà, gặp Hoài Nghĩa, Hoài Nghĩa hỏi:
Tam Tư đáp:
Cả hai cười lớn mà chia tay.
Sáng hôm sau, khí trời mát mẻ. Hoài Nghĩa không thể chờ hơn, vội vào ngay vườn ngự, thì thấy vạn đóa khoe tươi, nghìn cành khoe sắc liền đi ngay vào Sướng Hoa đường. Một viên quan đang quản nơi đây, vốn là Tô Lương Tự tiếp chiếu chỉ, lệnh bày yến tiệc trong vườn, nên phải tới đây rất sớm. Thấy Hoài Nghĩa, Lương Tự liền quát:
Hoài Nghĩa thấy Lương Tự chửi thế, nghĩ rằng Lương Tự mắt kém, nhìn không ra, nên cố nén giận trả lời:
Lương Tự vẫn lớn tiếng:
Hoài Nghĩa giương mắt nhìn, định mở miệng cãi, không ngờ Lương Tự cứ cầm hốt đánh vào giữa mặt mấy cái luôn. Hoài Nghĩa chẳng còn cách nào khác, đành phải bỏ chạy vào cung thái hậu, quỳ lạy cả hai gối. Thái Hậu hỏi:
Hoài Nghĩa thưa:
Thái hậu liền kéo Hoài Nghĩa dậy mà rằng:
Rồi gọi viên quan coi cửa bắc tới:
Lại nói với Hoài Nghĩa:
° ° °
Lại nói chuyện Lương Tự bày biện ở Sướng Hoa đường, nào bình phong vẽ chim công, nào rèm hoa phù dung, khắp núi, khắp hồ, trăm hoa đua sắc, lại thêm tĩnh mịch thật đáng yêu. Giờ lâu ngự sử Địch Nhân Kiệt dẫn trăm quan vào, thấy quang cảnh như vậy, không khỏi lời thán phục:
Nội sử An Kim Tàng đáp:
Các quan dạo xem một vòng, duy chỉ cây hoa dâm bụt đến mầm non cũng chẳng thấy, vẫn trong điêu tàn của tiết đông sơ. Bất giác Kim Tàng liền than thở:
Lúc này phò mã Vũ Du Kỵ sau khi vào cung lạy chào thái hậu, kéo ra Sướng Hoa đường lĩnh yến được ban, thêm nữa là bọn cung nữ theo hầu thái hậu, lệnh cho các đại thần không phải hành lễ, cứ theo thứ tự mà ngồi. Thái Hậu lên tiếng:
Lại sai tả hữu xem trong số thảo mộc có loài nào dám coi thường chiếu chỉ mà không chịu nở hoa chăng. Tả hữu thưa:
Thái hậu liền lệnh cho cắt hết cành, đày ra bãi hoang, làm bờ rào, không cho trồng trong vườn nữa.
Bọn Vũ Tam Tư vốn phường xiểm nịnh, tìm hết lời hoa mỹ để ngợi ca, riêng Địch Nhân Kiệt cùng một vài viên quan nữa thì tâu:
Rượu được ba tuần, quần thần cáo lui, thái hậu nhân Hoài Nghĩa chờ trong nội cung, nên cũng quay ngay về. Vũ Tam Tư thấy thái hậu không mời mình về cung, trong lòng nghi hoặc, đi qua Ngoạn Nguyệt đình, rẽ sang Thúy Bích hiên, thấy Thượng Quan Uyển Nhi đang dựa lan can mơ mộng.
Chính là:
Mặt tươi phấn điểm hoa lê
Lưng ong thân liễu tròn xuê nhẹ nhàng
Buồn tênh tựa hẫng lan can
Đong đưa ai biết hồn tan nơi nào
Tam Tư ở chỗ thái hậu, vẫn thường thấy Uyển Nhi đã có để ý tới, nay thấy mỗi mình Uyển Nhi ở đây, lấy làm mừng rỡ, cất tiếng:
Uyển Nhi quay đầu lại, thấy Tam Tư, liền cười:
Tam Tư hỏi:
Uyển Nhi đáp:
Tam Tư đáp:
Uyển Nhi giục:
Tam Tư cười:
Uyển Nhi đành phải theo đến. Tam Tư hỏi:
Uyển Nhi đáp:
Tam Tư liền ôm lấy Uyển Nhi mà rằng:
Uyển Nhi liền kể chuyện lúc Vi Hoàng hậu còn ở trong cung:
Tam Tư đáp:
Nói xong, liền chia tay.
° ° °
Lại nói Sách Nguyên Lễ, Chu Hưng, Lai Tuấn Thần cũng được dự yến ở hướng Hoa đường, thấy bọn người chính trực Địch Nhân Kiệt, An Kim Tàng dáng vẻ ngang nhiên, không coi bọn chúng vào đâu trong lòng đều giận dữ, khác nào Hoài Nghĩa căm tức Lương Tự vậy. Gặp ngay chuyện Dương Sơ Thành ở Quắc Châu, kéo bè cánh định nghênh giá nhà vua ở Phòng Châu về, thái hậu ra lệnh bắt giam. Hoài Nghĩa cùng vào hùa với bọn Chu Hưng, vu cho Tô Lương Tự, Địch Nhân Kiệt cùng An Kim Tàng liên hệ với bọn Sơ Thành để mưu phản. Lai Tuấn Thần lại vứt một cái quạt vào trong hòm đựng tấu chương của triều đình, trên có viết hai bài từ "Túy hoa Âm" nói là Lương Tự mỉa mai thái hậu, cũng nhằm mưu phản nghịch:
Phá mùa đông tuyết phải nhường ai.
Nhưng đâu cứ mãi thế này
Một còn không chắc dễ hai được nào
Đem "đan chiếu" 1 truyền vào thượng uyển
Bắt muôn hoa nở rộn một khi
Cỏ cây nào biết nói gì.
Mặt rồng đẹp ý là tùy tay ai?
Chẳng qua chỉ muốn tìm đường a dua
Đêm qua "đan chiếu" một tờ
Muôn hoa nở cả, ai ngờ một không!
Ấy dâm bụt dửng dừng dưng
Căm quân xiểm nịnh, ghét phường quyền gian
Muôn hồng nghìn tía thẹn chăng?
Thái hậu thấy thế, vô cùng giận dữ, nhưng vẫn biết Địch Nhân Kiệt vốn là viên quan trung trực lâu nay liền cầm bút xóa tên đi, còn lại lệnh cho Sách Nguyên Lễ tra hỏi. Nguyên Lễ được dịp tra tấn rất tàn khốc, chẳng rõ vu hại được nhiều ít, nhưng riêng Tô Lương Tự thì nhất quyết bắt phải nhận có mưu phản, Lương Tự gào thét:
Bọn này lại kéo An Kim Tàng lên tra khảo, Kim Tàng nói:
Liền cầm lấy đoản kiếm, tự mổ bụng mình, ngũ tạng đều lộ ra cả máu chảy lênh láng cả pháp đường. Đỗ Cảnh Kiểm, Lý Bạch biết rõ Kim Tàng lâu nay lòng dạ ngay thẳng, vội quát tả hữu giằng lấy đoản kiếm, tâu lên thái hậu rõ. Thái hậu liền truyền lệnh bọn Tuấn Thần không được tra hỏi nữa, và gọi ngay Thái y viện vào chăm sóc.
Việc làm của An Kim Tàng xa gần đều nghe, thứ sử Mị Châu là Anh Công Từ Kính Nghiệp, cùng em là Kính Du, đi qua Dương Châu, nghe tin này không giấu được giận dữ:
Kính Du thêm:
Bỗng thấy Đường Chi Kỳ, Lạc Tân Vương tới, cũng bởi họ Đường, họ Lạc bị biếm trích nên mới về Dương Châu cả. Hai người cất tiếng hỏi:
Kính Nghiệp đáp:
Hai người xem xong, Chi Kỳ không ngớt than thở, còn Tân Vương thì nói với Kính Nghiệp:
Kính Nghiệp cãi:
Chi Kỳ hỏi:
Tân Vương thêm:
Kính Nghiệp đáp:
Tân Vương đáp:
Kính Du nói:
Tiểu đồng bưng rượu ra, tất cả đều dùng chén lớn uống luôn mấy chén. Tân Vương đứng dậy nói:
Rồi tới bên án, mở rộng giấy viết ngay:
Ngụy triều, Vũ Thị tính đâu có hòa thuận xuất thân hàn tiện.
Xưa thời Thái Tôn được vào hầu trong cung. Kịp khi có tuổi, đã mang tiếng làm nhơ bẩn nội tẩm. Về sau, che giấu việc hầu Thái Tôn, lại được vào hầu tiên đế, sinh ra ghen tuông, nhân có chút nhan sắc, không chịu nhường ai, rồi dèm pha, nịnh hót, làm mê hoặc lòng chúa. Lên ngôi hoàng hậu đưa đường tiên đế vào thói hươu nai. Tính tình sài lang, gian ác, tàn hại trung lương, giết chị, giết anh, giết vua, giết mẹ. Thần người đều ghét, trời đất không dung, sinh lòng phản nghịch. Muốn đổi ngôi vua, giao cho họ mình quyền cao chức trọng.
Kính Nghiệp tướng quân, vốn cựu thần nhà Đường ta, dòng dõi công hầu, đã từng cùng tiên quân dựng nên nghiệp lớn, được hậu ân bản triều, như Vi Tử như Viên Quân Sơn xưa, buồn thốt ra lời than, giọt nước mắt không phải là không có cớ. Thế cho nên nghĩa khí nổi lên như mây bay, như gió cuốn, chí muốn yên xã tắc, thấy thiên hạ thất vọng, vậy thuận lòng mong muốn của dân, phất cờ khởi nghĩa để tảo trừ loài yêu nghiệt.
Các nghi hoặc ở trong đất nước, hoặc trọng hàng tôn thân, hoặc chịu lời ký thác xưa, hoặc được truyền di mệnh, lời ban còn văng vẳng bên tai, lòng trung đâu đã đổi: Đất lăng chưa ráo, vua nhỏ nhờ ai. Nếu được chuyển họa thành phúc, nhớ vua trước, giúp vua sau, cần vương nên việc, thì không phụ mệnh tiên quân, Có lòng tất có thưởng, lấy sông núi chứng minh. Nếu còn cố giữ thành trì cho giặc, do dự không theo đường chính, ngu tối không đoán việc trước, thế tất chậm trễ là bị cực hình.
Cứ xem tình hình trước mắt sẽ biết thiên hạ về ai. 2
Kính Nghiệp ngồi ở bên, vừa xem Tân Vương viết, vừa chảy nước mắt khóc, mà vẫn theo dõi Tân Vương viết cho đến tận chữ cuối cùng, chén rượu trong tay rơi vỡ lúc nào không biết, tay đập án mà thở than. Tân Vương viết xong, vứt bút xuống đất chửi thề:
Mọi người xúm lại đọc một lần nữa, không ai là không rơi nước mắt. Ai có thể ngờ rằng, chỉ với một bài hịch, mà chẳng khác gì một đạo luật trị nước an dân, có thể làm cho người này đau xót, kẻ khác nước mắt ngắn dài, người người than thở, ai nấy thương tâm. Kính Du cất tiếng:
Tất cả ngồi lại, Kính Nghiệp lên tiếng:
Họ Lạc họ Đường nghe lời ra về.
° ° °
Lại nói chuyện lúc này Địch Nhân Kiệt làm tể tướng, xem xét số tù nhân trong ngục chưa thành án, còn tới hơn tám trăm năm mươi người. Nhân Kiệt mới dâng sớ kể tội Sách Nguyên Lễ dùng nhục hình tàn khốc tâu lên thái hậu. Thái hậu bèn lệnh cho Nghiêm Tư Thiện tra xét. Tư Thiện liền mời Chu Hưng đến cùng uống rượu, rồi nói với Chu Hưng:
Chu Hưng đáp:
Tư Thiện gọi lấy ra một cái chum lớn, đốt than rừng rực ở bên ngoài, rồi đứng dậy nói với Chu Hưng:
Chu Hưng đành phải cúi đầu nhận tội, bị đày ra Lĩnh Nam, nhưng rồi những nhà bị Hưng bức hại tìm cách giết chết. Còn bọn Sách Nguyên Lễ, Lai Tuấn Thần, đem chém thây bêu ngoài chợ, dân chúng đua nhau giành cướp thịt về ăn, chẳng mấy chốc hết sạch.
Thái Hậu biết rõ thiên hạ oán ghét, bèn xuống chiếu làm tội bọn ác nghiệt này, nhiều kẻ bị tru di ba họ. Vì vậy những chuyện tàn khốc, chỉ một sớm đã hết sạch, tất cả quân cho đến dân đều mừng rỡ mà rằng:
Một hôm, Vũ Tam Tư vào cung, đem tờ hịch của Từ Kính Nghiệp cho thái hậu xem. Xem xong thái hậu rùng mình than dài, rồi hỏi:
Tam Tư thưa:
Thái hậu phán:
Tam Tư nhân đó đem chuyện Kính Nghiệp có hẹn với Bùi Diễm làm nội ứng nhưng trong thư của Bùi Diễm chỉ có mỗi hai chữ "Thanh nga", chẳng ai hiểu gì cả. Thái hậu phán:
Tam Tư nhớ lại những lời của Uyển Nhi, nói Vi Hoàng hậu ái mộ mình ra sao, bèn thưa:
Thái hậu phán:
Tam Tư thưa:
Thái hậu vẫn do dự, thì cung nga vào quỳ thưa:
Thái hậu hỏi Uyển Nhi:
Uyển Nhi nói với Tam Tư:
Tam Tư hỏi:
Uyển Nhi đáp:
Tam Tư hiểu ý, bá vai Uyển Nhi, đùa rỡn một hồi, đem chuyện thái hậu sai đi Phòng Châu kể lại, để thăm dò Uyển Nhi xem sao.
Uyển Nhi nói:
Tam Tư đáp:
Liền chia tay.
Ngày hôm sau, thái hậu xuống chỉ, sai Tam Tư lập tức đi công cán Phòng Châu. Tam Tư liền vào cung từ biệt, Thái Hậu dặn dò kỹ lưỡng. Uyển Nhi lén đem lễ vật cùng thư viết giao cho Tam Tư.
Mấy ngày sau, Tam Tư đã tới Phòng Châu, tìm quán trọ nghỉ ngơi, dặn tay chân giả xưng là khách thương tìm đến Phòng Châu mua hàng hóa.
Tam Tư chờ mãi tới đêm khuya vắng vẻ, mới vờ hỏi dò chủ quán:
Chủ quán thưa:
Tam Tư thầm nghĩ: "Lư Lăng Vương làm những việc này rõ là không có lòng nào khác. May vừa hôm nay là mười bốn, mai là ngày rằm, đợi vương ra chùa, ta vào xem sao".
Sáng ngày hôm sau, Tam Tư cùng với ba bốn tên tiểu lại, lên kiệu vào phủ. Lính canh biết Tam Tư, không hiểu sự thể ra sao, liền vội vào trình Vi Hoàng hậu. Vi Hoàng hậu liền gọi thái giám vào hỏi:
Thái giám thưa rõ. Vi Hoàng hậu nói:
Thái giám ra rước vào. Tam Tư thấy Vi Hoàng hậu ra đón, đưa mắt nhìn, thì:
Thân hình yểu điệu
Phong thái thanh cao
Mũi tựa ngọn quỳnh ngọc giao chung đức
Mắt gồm sóng nước sóng tình hợp thành
Tóc xanh tha thướt
Khác nào rồng lượn giửa mây xanh
Da trắng mịn màng
Khó phân Tây Thi bên ngòi biếc.
Tam Tư vội vàng quỳ lạy, Vi Hoàng hậu hoàn lễ, rồi mời ngồi, hỏi:
Tam Tư cười thưa:
Vi Hoàng hậu rớt nước mắt:
Tam Tư hỏi:
Vi Hoàng hậu đáp:
Tam Tư tiếp:
Rồi lấy thư trong hia, tả hữu bưng lễ vật, trình lên. Vi Hoàng hậu bóc thư Uyển Nhi ra xem, vừa xem vừa khẽ cười. Hầu gái vào thưa:
Vi Hoàng hậu ra đón Trung Tôn vào, cùng Tam Tư chào lễ, an tọa, Trung Tôn vấn an thái hậu, rồi hàn huyên chuyện triều đình, chuyện hoàng tộc. Trung Tôn nói:
Tam Tư đáp:
Trung Tôn nói:
Liền sai tả hữu:
Rồi đưa Tam Tư vào điện tiệc rượu. Tam Tư đem chuyện Kim An Tàng mổ bụng moi ruột, cùng chuyện Từ Kính Nghiệp thảo hịch, thái hậu sai Lý Hiếu Dật đi tiễu trừ, vừa sai mình đi Dương Châu, lệnh cho Lâu Sư Đức cùng phát binh thảo phạt, kể lại một lượt. Trung Tôn giận dữ nói:
Liền lệnh cho dọn dẹp thư phòng ở phía sau. Trung Tôn lui vào thay áo. Tam Tư đã thấy bày tiệc rượu sẵn, lại thêm người hầu gái đứng hầu Vi Hoàng hậu vừa rồi giả dạng mời trà, lại gần thưa khẽ với Tam Tư.
Trung Tôn đã ra ngồi vào bàn tiệc, mọi người cố tình mời Trung Tôn uống rõ say rồi dìu vào phòng trong.
Tam Tư thấy ở gian bên là giường đệm, sắp sẵn hoa lệ, liền lệnh ấy tay chân đi nghỉ trước, còn mình thì dựa án xem sách.
Chẳng mấy lúc Vi Hoàng hậu đã ra, Tam Tư vội đứng dậy đón:
Vi Hoàng hậu khẽ đáp:
Rồi rút ra ở trên mái tóc ra một cái trâm có gắn ngọc minh châu, tháo ở tay ra một xuyến bích ngọc liên hoàn đặt trên bàn, lên tiếng thì thầm:
Tam Tư đáp:
Vi Hoàng hậu đáp:
Nói rồi đứng dậy từ biệt Tam Tư mà vào.
Tam Tư ở lại phủ, nhưng sợ dằng dai, thái hậu nghi ngờ, liền từ biệt Trung Tôn lên đường về kinh.
Muốn biết sự thể ra sao, xin xem hồi sau phân giải.--------------------------------
1Dùng chữ "oan" để chế giễu. "Chiếu" theo nghĩa khác: chiếu chăn. 2Theo bản dịch của Hoàng Khôi, "Cổ văn" tập 11, Trung tâm học liệu Sài Gòn, 1970, có thay một vài chữ. 3"Thanh" là màu xanh, gồm chữ "nguyệt", chữ "thập", chữ "nhị" thành "thập nhị nguyệt": tháng mười hai. Chữ "Nga" gồm chữ "Ngã" là tôi, là ta, và chữ "Điều," gần giống chữ "Dữ" là cùng, với. 4Vũ Tam Tư là cháu của thái hậu, nên Trung Tôn xưng hô thế!