Từ rằng:
1 . Người ngu dại,
Quỷ nên thiêng,
" Người hèn nhát,
Ma bắt nạt
Chiêm bao mộng mị đảo điên hiện hình.
Nghề nghiệp riêng chí khí đều cao.
Toàn trung toàn tiết trước sau,
Tiếng thơm muôn thuở, khó nào khó hơn.
Theo điệu "Giảm tự Mộc lan hoa"
Đại phàm người có đức, chẳng kể đàn ông đàn bà, giàu sang, nghèo khó đều được xung quanh kính trọng ma quỷ cũng phải ngưỡng phục, vì thế mà quỷ thần có đức mới đáng kính. Nếu vô đức mà cũng thờ phụng, dựa vào sự hung bạo, càn rỡ của quỷ thần thì chỉ nhằm áp chế người khác. Lúc đương thịnh, quyền uy trong tay, tác quái tác họa mặc sức ngông cuồng, dương dương kiêu ngạo, hết lời khoa trương, đến khi thời tiết hết vận suy, chữ lộc chữ mệnh đều chẳng còn, tay chân rời bỏ, người thân chia lìa, lòng riêng phản loạn.
Lúc này mới là lúc các loài si my võng lượng 1 kéo đến, sinh yêu, tác quái đùa giỡn đủ trò, cho nên nói "nhân suy quỷ lộng" người hèn quỷ trêu, là thế.
Duy có bậc trung trinh tiết liệt, không lấy chuyện thịnh suy dễ mà thay lòng, dẫu có phải trà trộn trong đám con hát, nghề mọn hoặc nương thân nơi binh lính, nhưng gan trung dạ nghĩa trời cho vẫn không đổi, dù không hiện thành hành động, thì tiết tháo đó cũng đủ trùm trời đất mà đương diện với ma quỷ. Loại người này tuy không nhiều, nhưng nghĩa khí của họ là một, chẳng chóng thì chầy cũng sẽ nhận ra nhau.
° ° °
Nay hãy nói chuyện Đường Huyền Tông, nhân An Lộc Sơn đánh chiếm quận Trần Lưu, Trương Giới Nhiên ngộ hại báo về kinh đô mới thấy thế giặc mạnh, không dễ diệt trừ, triệu trăm quan tới thương nghị, bàn luận phân vân, chẳng có dược một kế sách hay. Dương Quốc Trung mấy hôm trước còn huyênh hoang, lúc này cũng "vô kế khả thi". Huyền Tông liền phán: .
Liền hạ chiếu ngự giá thân chinh đi đánh An Lộc Sơn, để thái tử giám quốc, bách quan không dám tâu một lời.
Dương Quốc Trung thì kinh ngạc, hoảng sợ, thầm nghĩ: "Ta trước đây bao lần kéo bè kết cánh với Lý Lâm Phủ để mưu hại Đông cung, làm sao mà Đông cung lại không giận cho được. Chỉ vì Quý Phi đang được sủng ái, ta thì làm tể tướng đương triều. Đông cung còn chưa lên ngôi, cho nên chưa làm gì được ta. Nay Đông cung cầm quyền, nhất định sẽ báo thù xưa, họ Dương đến không còn chỗ đứng!"
Nên bãi triều, Quốc Trung về ngay phủ đệ, khóc ròng mà nói với vợ là Bùi Thị cùng Hàn Quốc, Quắc Quốc phu nhân rằng:
Ai nấy đều ngạc nhiên hỏi, Quốc Trung đáp:
Cả nhà đều kinh hoàng khóc lóc:
Quắc Quốc phu nhân nói:
Quốc Trung đáp:
Hai phu nhân liền lên kiệu vào cung, nói thác rằng vào hầu Quý Phi rồi kể lể mọi chuyện, nói lại lời Quốc Trung. Quý Phi hoảng hốt:
Liền tháo xuyến, gỡ trâm, bôi đất bùn đầy mặt, quỳ lên trước điện, cúi lạy khóc lóc. Huyền Tông ngạc nhiên quá đỗi, tự tay nâng dậy mà hỏi:
Quý Phi thưa:
Nói xong, liền phục xuống đất mà khóc rống, Huyền Tông không chịu nổi, sai cung nga đỡ lên ghế ngồi, cầm tay mà an ủi:
Quý Phi nghẹn ngào:
Lại khớp lúc thái tử dâng biểu, nội thị đưa vào, từ chối không nhận mệnh giám quốc, xin Huyền Tông hãy khoan thân chinh ra trận, chỉ cần sai một đại tướng hay một thân vương nào đó, dẫn quân đi là có thể toàn thắng.
Huyền Tông đọc biểu của thái tử, trầm ngâm:
Quý Phi nghe nói, lại càng kinh hoàng, vội cúi lạy tâu:
Huyền Tông nghe gật đầu:
Liền giáng chỉ bãi ngự chiếu vừa rồi, đặc sai hoàng tử Vinh Vượng Uyển làm nguyên soái, Tả kim ngô đại tướng quân Cao Tiên Chi làm phó nguyên soái, lĩnh binh xuất chinh. Lại định dùng Cao Lực Sĩ làm giám quân, Lực Sĩ cúi đầu xin thôi, bèn lấy nội giám Biên Lệnh Thành làm giám quân sứ.
Chiếu đã ban rồi, Quý Phi mới yên tâm, chùi nước mắt tạ ơn. Huyền Tông liền lệnh cho cung nga cùng Quý Phi sửa sang y phục dung nhan, bày yến tiệc để cùng Quý Phi giải sầu. Hàn Quốc, Quắc Quốc phu nhân cũng ra lạy chào Huyền Tông, cùng ngồi dự yến.
Người đời sau có thơ than rằng:
Tháo trâm hoàng hậu, chuyện đời xưa
Những dễ tự khiêm, can gián vua
Khổ nhục ngày nay theo mẹo cũ
Quý Phi bôi mặt, nghĩ buồn chưa?
Trong yến tiệc, Huyền Tông vẫn phải an ủi Quý Phi. Ba chị em Quý Phi cũng muốn Huyền Tông khuây khỏa nỗi lo lắng chưa yên mà tìm lấy sự thanh thản nên cũng ra sức chiều chuộng. Bọn Lê Viên tử đệ cùng cung nga vừa hát vừa múa. Rượu đã gần say, hứng chí, Huyền Tông lại tự đánh trống, Quý Phi gảy tỳ bà, thổi sáo ngọc, mãi đến khuya mới tan. Hai phu nhân tạ từ ra khỏi cung.
Đêm ấy Huyền Tông cùng nghỉ với Quý Phi, bởi trong lòng chưa yên, giấc ngủ cũng chẳng thành. Trong lúc mơ màng, Huyền Tông thấy đến cung Hoa Thanh, ngồi trên long sàng, còn Quý Phi ngồi ở bên án, dựa lưng vào thành ghế, chiếc sáo ngọc hàng ngày vẫn thổi thì treo trên tường. Bỗng thấy một con quỷ hình dung kỳ quái, không biết từ đâu hiện ra, đến ngay bên Quý Phi, lấy chiếc sáo ngọc xuống, đưa lên miệng thổi nghe rất chối tai. Huyền Tông giận lắm, định cất tiếng quát, nhưng cổ họng nghẹn tắc, nói không ra lời. Con quỷ vẫn ngang nhiên, không chút sợ hãi, thổi sáo chán rồi, liền quay ra cười đùa, nhảy múa với Quý Phi. Huyền Tông vội đứng dậy đuổi đánh nhưng không tài nào đứng dậy nổi, quay nhìn xung quanh, chẳng thấy một kẻ hầu người hạ nào, nhìn Quý Phi nằm gục trên bàn, mê man bất tỉnh, khoảnh khắc ngoái lại, thì người nằm gục trên án không còn là Quý Phi, mà là một người đội mũ xung thiên, mình khoác áo bào vàng thêu rồng, rõ ràng là một bậc thiên tử, nhưng không thấy rõ được mặt. Trong khi đó, con quỷ vẫn nhảy múa không thôi, từ từ tiến lại trước mặt Huyền Tông, trong tay con quỷ bỗng cầm một cái gương tròn sáng long lanh, soi trước mặt Huyền Tông. Huyền Tông nhìn vào, lại thấy mình thành một người đàn bà, đầu mang khăn lụa đen, mình khoác áo gấm thêu, mười phần xinh đẹp. Huyền Tông sợ hãi, bán tín bán nghi, lại thấy trên không hạ xuống một người cao lớn, hình dung thật đúng là:
Trên đầu đội mũ chuồn chuồn
Đai sừng dát ngọc, lưng tròn bụng to
Áo bào đen thêu mãng xà
Vạt áo nhọn, đủ hốt lia, gươm dài
Mắt báo lửa rực đôi ngươi
Tóc râu lởm chởm, trùm vai như rồng
Vốn nghề tiêu ác trừ hung
Chung Quỳ, nuốt quỷ chính ông thần này!
Người cao lớn này quát một tiếng nạt con quỷ, con quỷ lập tức co quắp lại, người này túm ngay lấy, khác nào túm con gà. Huyền Tông vội hỏi:
Người này cung kính thưa:
Nói xong, giơ cả hai tay, móc ngay hai mắt quỷ, bỏ vào miệng mà nuốt, rồi hai chân đạp mạnh, bay lên không mà biến mất.
Huyền Tông hoảng hốt, tỉnh dậy, thì ra một giấc mơ, bàng hoàng hồi lâu mới trấn tĩnh được.
Lúc này Quý Phi cũng đột nhiên tỉnh giấc, miệng vẫn còn ú ớ mê sảng. Huyền Tông vội hỏi:
Quý Phi ngơ ngẩn một hồi, mới thưa:
Huyền Tông nghe nói, cũng kể lại giấc mơ của mình. Quý Phi xuýt xoa lấy làm lạ. Huyền Tông liền khuyên giải:
Quý Phi thưa:
Huyền Tông đùa:
Nói xong, ai nấy cười vang. Ấy cũng bởi Dương Quý Phi chính là hậu thân của Tùy Dượng Đế, còn Đường Huyền Tông chính là Chu Quý Nhi tái thế, những điều thấy trong mộng vừa rồi, chính là lại thấy chính mình kiếp trước vậy. Thời vận đã đến lúc suy thoái, nên quỷ ma mới tới trêu ghẹo, nên có những cảnh mộng thế chăng?
Chính là:
Sức yếu bởi khí suy
Mộng mị chuyện ma quỷ
Thay đổi đế hóa phi
Nam hóa nữ cũng kỳ!
Sáng hôm sau, Huyền Tông lâm triều, phán ngay rằng:
Ở văn ban, thấy có cấp sự trung Vương Duy 4 xuất ban tâu rằng:
Huyền Tông lấy làm lạ lùng, liền gọi ngay người thợ vẽ có tài là Ngô Đạo Tử tới, kể rõ hình dáng Chung Quỳ trong giấc mộng, sai vẽ một bức hình, dùng làm tượng trấn quỷ. Lại riêng truy tặng áo bào, hốt ngà, ban cho trạng nguyên cập đệ. Lại nhân Quý Phi mơ thấy quỷ từ nội cung đi ra, liền đem hình Chung Quỳ dán ngay ở trước cửa lớn của hậu cung, chẳng khác gì Uất Trì Kính Đức cùng Tần Thúc Bảo vậy. Cho nên đến giờ, trong dân gian, vẫn thường dán hình Chung Quỳ ở ngay cửa sau, cũng là do từ chuyện này, và thường tôn xưng là Chung Trạng nguyên.
Chính là:
Đời Thái Tông, Thúc Bảo, Kính Đức
Ma quỷ gian tà bị chém nát
Nay lại có trạng nguyên Chung Quỳ
Nhai sống hết nhũng phường tham ác.
Huyền Tông nhân việc họa tượng Chung Quỳ, nhớ tới chuyện xưa Đường Thái Tông vẽ hình Tần Thúc Bảo cùng Uất Trì Kính Đức, liền phán rằng:
Nhân đấy liền nghĩ tới huyền tôn của Thúc Bảo là Tần Quốc Mô, Tần Quốc Trinh, hai anh em, nên phán tiếp:
Liền ban sắc chỉ, truyền trung thư tỉnh khôi phục nguyên chức cũ là Hàn lâm thừa chỉ cho hai anh em họ Tần.
Lại nói anh em Tần Quốc Mô, từ ngày bị đuổi về nghỉ, vẫn ở vùng gần đô thành, đóng cửa không đi đâu, nếu bạn bè tới thăm, thì uống rượu chuyện trò, ngâm thơ làm phú, nhất quyết không bàn tới công việc triều đình. Quốc Trinh thỉnh thoảng cũng có nhớ đến chuyện gặp người đẹp ở phường Tập Khánh dạo nào, nhưng lại sợ anh mắng chửi, nên không dám hở môi, thường quay lại thăm hỏi dò la, nhưng tịnh không tin tức, cũng chẳng hề thấy người đẹp tìm tới.
Bỗng có một hôm, có người vốn là chỗ quen biết cũ gõ cửa đến, họ Nam tên Tễ Vân, con thứ tám trong nhà, quê ở Ngụy Châu. Người này khẳng khái, có khí tiết, thông thạo cưỡi ngựa bắn cung, dũng lược hơn người, tổ phụ vốn là theo nghiệp binh đao, có đi lại với Tần Thúc Bảo, vì vậy với anh em Quốc Mô là chỗ quen thuộc mấy đời, gắn bó thân thiết. Mấy năm trước đây cũng đã hai ba lần đến nhà theo với tổ phụ. Gần đây việc đi lại có thưa hơn, hôm ấy, không hiểu có gì lại hành lý, người ngựa đến nhà thăm. Anh em họ Tần mười phần mừng rỡ, đón vào lễ chào xong, hàn huyên tíu tít. Quốc Mô lên tiếng:
Nam Tễ Vân đáp:
Quốc Mô đáp:
Tễ Vân nói:
Quốc Trinh lên tiếng:
Quốc Mô tiếp:
Tễ Vân nói:
Quốc Mô nói:
Quốc Trinh tiếp:
Rồi bày tiệc rượu khoản đãi, kể lể chuyện say sưa, bàn bạc chuyện sắp tới. Đang lúc nâng chén, bỗng người nhà thưa, Phạm Dương Tiết độ sứ An Lộc Sơn khởi binh làm phản, hiện đã có tin báo về kinh sư. Anh em họ Tần đạp bàn đứng dậy mà nói lớn:
Tễ Vân cũng đấm ngực mà rằng:
Đêm ấy, không nói nữa.
Hôm sau, ăn sáng xong xuôi, Tễ Vân viết ngay mấy hàng danh thiếp, cầm theo thư của Hứa Viễn, cưỡi ngựa vào kinh thành. Hỏi tới chỗ Trương Tuần, thì ra họ Trương thăng Phòng ngự sử Ung Khâu, mấy ngày trước đây đã ra khỏi kinh đô, lên đường đi nhận chức rồi.
Tễ Vân hứng chí mà tới, bại chí mà đi, giật ngựa ra khỏi thành, thầm nghĩ: "Ta nay nên từ giã anh em họ Tần, nhanh tới Ung Khâu, dẫu được chủ nhà hậu tình, cũng không nên lần lữa, sợ lở việc chăng!".
Vừa đi, vừa nghĩ, đã tới cổng nhà họ Tần, đang định xuống ngựa, thấy một người cao lớn, đội mũ rộng, mình mặc áo ngắn, cưỡi ngựa đi tới, phong thái rất đường hoàng. Tễ Vân ngờ rằng là viên tướng truyền lệnh, nên giữ ngựa đứng chờ. Người kia đến nơi, Tễ Vân cúi chào mà hỏi:
Người này nghe hỏi, liền dừng ngựa nhìn Tễ Vân một lát, thấy nghi dung khác phàm, không dám coi thường, chắp tay kính cẩn đáp:
Tễ Vân đáp:
Người này đáp:
Tễ Vân chỉ tay:
Người này ngước mắt nhìn, thấy ngay trên cổng biển lớn ghi rõ:
Phủ làm theo sắc ban của hoàng thượng cho hai anh em trạng nguyên, "Khâm tứ huynh đệ trạng nguyên phủ", liền hỏi ngay:
Có phải là hậu duệ của công thần tiên triều Tần Thúc Bảo, nhân vì can gián mà phải bãi quan về nghỉ chăng?
Tễ Vân đáp:
Vừa nói, vừa xuống ngựa. Người này cũng vội vàng xuống ngựa làm lễ chào rồi nói tiếp:
Tễ Vân đáp:
Người này cả mừng, cùng hỏi xưng họ tên rồi vào cổng, thấy anh em họ Tần, chào hỏi xong, liền cùng ngồi. Tễ Vân kể lại chuyện không gặp Trương Tuấn, trước cổng gặp gỡ thế nào. Anh em họ Tần từ tốn cảm tạ, hỏi rõ họ tên, quê quán.
Người này đáp:
Tễ Vân cùng anh em Quốc Mô thấy họ Lôi ngôn từ khẳng khái, ý khí hiên ngang, rất là kính phục, bèn hỏi:
Vạn Xuân đáp:
Tễ Vân nghe nói, có vẻ không vui:
Vạn Xuân cười đáp:
Tễ Vân nói:
Quốc Mô lên tiếng:
Vạn Xuân bèn hỏi:
Tễ Vân đáp:
Chính là người vừa nhận chức Phòng ngự sử Ung Khâu Trương Tuần. Vạn Xuân nói:
Họ Trương này thì đúng là bậc kỳ lạ hiện nay, hiền huynh có quen biết cũ với Phòng Ngự Cứ sao?
Tễ Vân đáp:
Vạn Xuân tiếp:
Tễ Vân đáp:
Vạn Xuân khẳng khái:
Quốc Trinh nói:
Họ Nam cùng họ Lôi mừng lắm, liền cùng vái bốn vái, nhận làm anh em, sống chết thề cùng đền nợ nước; hoạn nạn giúp đỡ, không bao giờ thay lòng đổi dạ.
Chính là:
Đi tìm người anh ruột
Gặp được bằng hữu tốt
Yêu anh, quý bạn bè
Ắt trung quân ái quốc.
Anh em Quốc Mô liền bày tiệc khoản đãi. Vạn Xuân nói:
Tễ Vân đáp:
Vạn Xuân bằng lòng.
Sáng sớm ngày mai, hai người cùng cưỡi ngựa vào thành, tìm đến nơi ngụ của Hải Thanh, xuống ngựa, Vạn Xuân vào trước, rồi cùng Hải Thanh ra đón Tễ Vân vào nhà. Bái chào xong, Vạn Xuân nói qua chuyện nhà, thuật chuyện ở Tần phủ, kết nghĩa với Tễ Vân, cùng nhau đi Ung Khâu.
Hải Thanh mừng lắm, vòng tay trước mặt Tễ Vân mà rằng:
Tễ Vân từ tốn:
Hải Thanh nói với Vạn Xuân:
Nói rồi lệ rơi như mưa, Vạn Xuân cũng chan hòa giọt ngắn giọt dài. Tễ Vân đứng bên cũng phải ngậm ngùi. Hải Thanh sai người dọn tiệc rượu được ba tuần, liền đứng dậy mà rằng:
Rồi đem ra một túi tiền, đưa làm lộ phí, ai nấy gạt lệ chia tay.
Tễ Vân than rằng:
Hôm ấy hai người cùng về Tần phủ. Anh em Quốc Mô bày tiệc rượu đãi, xong xuôi gói ghém hành lý lên đường. Anh em Quốc Mô tiễn đến hơn mười dặm, đặt rượu uống thêm với nhau, rồi mới chia tay, người về Tần phủ, kẻ đi Ung Khâu.
Anh em Quốc Mô, từ ngày nghe tin An Lộc Sơn phản loạn, lấy làm lo lắng cho công việc triều đình, suốt ngày riêng bàn kế sách tiêu trừ lũ nghịch tặc. Lại thêm nghe tin quân triều đình thất lợi, lòng càng tức tối, ý cũng muốn dâng sớ điều trần phương lược, lại nghĩ hiện nay chẳng còn ở quan chức, không tiện dâng lời mà mang tội.
Trong lúc trừ trừ, bỗng có đặc chi giáng xuống, khôi phục cho cả hai anh em về nguyên chức cũ, trung thu nhận mệnh, ngay ngày hôm sau vào triều, lạy chầu Huyền Tông:
Chính là:
Trong mộng gặp một quỷ hỏng tiến sĩ
Vội mời ra hai anh em trạng nguyên.
Chưa biết nước nhà ra sao, xin xem hồi sau phân giải.--------------------------------
1Si my: ma quỷ ở núi non, ao hồ. Võng lượng: ma quỷ ở cây cối, gỗ đá. (Hán Việt tứ điển) 2em chú thích hồi 40. 3Hầu Sinh người nước Ngụy, được Tín Lăng Quân rất quý trọng. Tín Lăng Quân liều thân cứu Triệu. Hầu Sinh vạch kế trộm hình phù của vua Ngụy để điều được mười vạn quân Ngụy. Khi Tín Lăng Quân lên đường. Hầu Sinh nói: "Đáng lẽ tôi phải theo đi, nhưng vì tuổi già không thể đi xa được, xin lấy hồn tiễn công tử." Rồi đâm cổ chết. (Đông Chu liệt quốc) 4Vương Duy (701-761): Thơ hay, chữ tốt, vẽ đẹp, giỏi âm nhạc. Hai mươi mốt tuổi đỗ tiến sĩ. Thích sống nhàn tản trong biệt thự ở Chung Nam Sơn, rất chuộng Phật giáo (Thơ Đường I). Xin xem các hồi tiếp. 5Thế giao, cũng như thế nghị là chỗ đi lại với nhau đã nhiều đời trở lên rồi. 6"Nan huynh nan đệ": Khó có người anh như thế, khó có một người em như thế. Thành ngữ, ý khen cả hai anh em đều giỏi.