Từ rằng:
Tình duyên chưa dứt
Đừng bảo biệt ly nhiều
Mà hoan hội ít
Không gió sớm mưa nhiều
Lẳng lơ đan dệt
Khéo nối lại lời nguyền thuở trước
Biết bao ngọc nát châu chìm
Ai ngờ hương cũ lại tìm về đây
Cành mai sắc trắng nét gầy
Đoan trang riêng chiếm những ngày cuối đông.
Theo điệu "Trường mệnh nữ"
Đại phàm tình người, ai mà chẳng ghét chia ly thích hội họp, nhất lại là trong chuyện yêu đương nam nữ. Nhưng cũng lại bởi sự thể bó buộc, không thể nào chỉ có hội ngộ, không có chia ly. Có khi tạm phải rời xa để rồi tụ họp, hoặc là mãi mãi chia lìa rồi mới có xum vầy. Hoặc có khi có thể chịu đựng chuyện sinh ly cũng còn hơn phải tử biệt. Đối với việc lìa xa mãi mà sau lại gặp gỡ, cũng chẳng khác nào từ cõi chết mà lại được trở về. Điều này là có ý trời ở bên trong qua những đổi thay đó mà thử thách tình người, thấy rõ cái còn cái mất, cái giữ cái buông. Hãy thử xem như phường liễu ngõ hoa tường, cũng có khi vẫn giữ được chữ tình chung không hề mai một, để rồi cuối cùng đoàn viên. Lại thêm nếu là bậc phi tần ở ngôi tôn quý, trong cơn hoạn nạn, cuối cùng không đến nỗi hại thân, vẫn giữ được chữ tiết, trở về với chủ cũ, lại càng trân trọng biết bao. Nói chi đến kẻ ngày thường cậy mình được sủng ái nuôi lòng ghét ghen, lúc gặp biến đã chẳng giữ được thân mình, chẳng thể nào so được với kẻ bị ghen ghét, nay lại nguyên trở về ngồi cạnh ngôi chí tôn. Âu cũng là một sự khoái ý vậy?
° ° °
Hãy tiếp chuyện Đường Túc Tông nghe tin Đông Kinh báo tin thắng trận, liền sai ngay Thái tử thái sư Vi Kiến Tố vào Tây Thục tâu lên thượng hoàng, xin thượng hoàng hồi loan. Sau đó lại sai hàn lâm học sĩ Tần Quốc Mô, Tần Quốc Trinh đi theo ngay để đón xa giá.
Tần Quốc Trinh tâu rằng Đông Kinh mới khôi phục, cũng nên sai quan tới đó mang chiếu ủy lạo tướng sĩ, vỗ yên trăm họ. Túc Tông nghe theo, liền sai trung sứ Đạm Đình Giao cùng với Quốc Mô vào Thành Đô đón thượng hoàng. Đổi cho Quốc Trinh từ chức hàn lâm học sĩ chuyển sang làm Đông Kinh Tuyên úy sứ, lại sai thêm Vũ bộ viên ngoại lang La Thái làm Tuyên úy phó sứ, cùng đem chiếu tới Đông Kinh, ngay ngày hôm sau cả hai lên đường.
La Thái vốn dòng dõi cố tướng quân La Thành, với Quốc Trinh chính là anh em họ ngoại vậy. Cả hai được cùng lên đường, rất là vừa ý. La Thái nói với Quốc Trinh:
Quốc Trinh cũng nói:
Đường dài rong ruổi, chẳng mấy ngày đã tới Đông Kinh, các quan ra đón chiếu thư, vào thành tuyên đọc.
Chiếu rằng:
"Tây Kinh thắng lớn, tiếp đến Đông Kinh, khen thay tướng soái mưu thần, lại được quân binh hết sức. Cho nên nước nhà dựng lại, đều nhờ công sức của các khanh cả đó vậy.
Nay trẫm đã viết biểu tâu lên thượng hoàng, luận công để ban thưởng, vỗ về tướng quân, an ủi các quận huyện. Các vùng khi thu phục thành trì, nhớ trích một nửa tiền của ở kho tàng để khao thưởng quân sĩ, tuyệt nhiên không được sách nhiễu trăm họ.
Trẫm nghe biết ở Cấp Quận, một ẩn sĩ tên là Nhân Tế, cùng một quan tư nghiệp Quốc Tử Giám là Tô Nguyên Minh, chính lúc Đông Kinh rơi vào tay giặc, hai người này không chịu khuất thân thờ giặc, tiết tháo rất đáng khen. Vậy xuống chiếu, đặc cử Nhân Tế làm bí thư lang, Nguyên Minh làm khảo công lang, kiêm việc thảo chế cáo lập tức phải vào kinh nhận việc.
Còn lũ Đạt Hề Tuân ba trăm tên quan viên theo hàng giặc thì giải ngay về kinh xét xử."
Nguyên Nhân Tế là người rất trung trực, ngay từ lúc An Lộc Sơn chưa làm phản, đã nghe tiếng, đem lễ vật đến mời về làm thư ký. Nhân Tế cũng biết Lộc Sơn khác lòng, nên thác rằng mình bị bệnh cuồng, đóng cửa không chịu đi. Đến khi Lộc Sơn tạo nghịch, sai sứ giả cùng với hai vũ sĩ chuyên việc hành hình, cầm kiếm sắt mà tới triệu Nhân Tế ưỡn ngực chịu chém, không nói một lời, sứ giả cho rằng quả có điên thật, nên quay về phục mệnh, nhân đó mà thoát chết.
Còn Tô Nguyên Minh, quê ở Hà Nam, bỏ quan về nhà, đến lúc loạn An Lộc Sơn gọi đến phong tước cao. Nguyên Minh cũng vịn cớ bệnh tật không nhận dù giặc nhiều lần đến ép buộc. Từ lâu Túc Tông đã được nghe gương tiết nghĩa của hai người, vì vậy trong tờ chiếu này đã nói ngay tới việc khen thưởng. Từ quân sĩ cho đến dân chúng nghe được chiếu, đều vui mừng tung hô: "Vạn tuế!".
Lại nói chuyện Tần Quốc Trinh, cùng với La Thái, việc công xong xuôi, quay về công quán, nghỉ ngơi hai ngày, rồi rủ nhau đi thăm Tố Cô, tìm đường tới huyện Lan Dương, lại tới nhà quán địch nghỉ ngơi.
Ngày hôm sau, hai người sắp sẵn lễ vật, thay mũ áo, dẹp bớt lũ tùy tùng, chỉ đem theo vài gia nhân, cưỡi ngựa đi vào núi Bạch Vân phía trước. Hỏi rõ thổ dân, quả nhiên trong vùng núi sâu thẳm có am Chân Tu quán, tên chữ là Tiểu Bồng Doanh, trong am có một lão tiết phụ tu hành, mọi người kính cẩn gọi là Bạch Tiên Cô. Thổ nhân còn nói thêm rằng:
La Thái đáp:
Liền cùng Quốc Trinh, gia nhân ruổi ngựa vào núi, vượt đèo, lội suối mới tới được trước cửa am, xuống ngựa. Cửa am đóng chặt, gia nhân gõ nhẹ, hai ba lần, mới thấy một bà già, tóc bạc trắng bước ra, mở cửa mời vào, hỏi ngay:
La Thái giảng giải:
Bà già nghe xưng là họ hàng với Tiên Cô, không dám từ chối, đành phải mời hai người vào nhà. Cảnh tượng trong am, thật quả là mười phần u nhã, có bài từ "Tây Giang Nguyệt" sau đây làm chứng:
Lư hương thơm nức miếu thần
Trang nghiêm tượng thánh giữa gian cao ngồi
Hoành phi một bức chạy dài
"Tiểu Bồng Danh " nét chữ ngời ngời soi
Trước sân hạc trắng xếp đôi
Một hàng tùng cổ xanh chồi hiên ngang
Lặng im trống ngọc chuông vàng
Tiên Cô tĩnh tọa đạo đàn phải chăng?
Bà già cẩn thận đóng cổng am, rồi lặng lẽ vào trong thưa lại.
Một lúc sau, ra nói có lệnh của Tiên Cô, mời khách vào thảo đường ngồi chờ, Tiên Cô sẽ ra sau. Lại một lát sau, nghe tiếng chuông gióng, Tiên Cô mặc một áo dài nửa lam nửa trắng hòa nhau, đầu đội khăn, chân đi dép bện bằng sợi móc, tay cầm phất trần, nhẹ nhàng bước ra, dung mạo rất thanh thoát, cử chỉ nhẹ nhàng, chẳng có dáng gì của một bà già đã hơn sáu mươi tuổi cả, quả là do sức thần đơn sa của La Công Viễn tiên sư vậy.
Chính là :
Son phấn thôi rồi buổi thiếu niên
Chân tu lánh tục giải ưu phiền
Xanh xanh mai tóc, thân khang kiện
Mà rượu tiên đành kém thuốc tiên.
La Thái cùng Quốc Trinh bước lên làm lễ ra mắt. Tiên Cô vội vàng đáp lễ, mời ngồi uống trà cùng La Thái hàn huyên một hồi.
Tiên Cô chỉ tay về phía Quốc Trinh mà hỏi:
La Thái đáp:
Tiên Cô nói:
Nói xong, nhắc đi nhắc lại chữ "Tần" như nghĩ ngợi điều gì.
Quốc Trinh thưa:
Nói rồi cả hai sai gia nhân mang lễ vật dâng lên. Tiên Cô nói:
Hai người thưa:
Tiên Cô hai ba lần nhún nhường, rồi mới nhận, nhân đó hỏi:
La Thái thưa:
Tiên Cô đáp:
Liền gọi đạo cô già, cùng mấy nữ đồng bày cơm chay, rồi mời cả hai vào phía sau xem cảnh.
Thấy lan can khuất khúc, suối chảy quanh co từ trên sườn núi về phía sau, thật là mát mẻ, thanh tịnh. Đi qua một dãy viện các dài, gặp một con đường nhỏ, dẫn đến ba gian nhà nằm khuất hẳn một góc, cửa đóng kín, có cả khóa cẩn thận, chỉ thấy một cửa sổ, nhưng cũng có ván gỗ che kín. Hai người nhìn vào, nghĩ là phòng riêng tĩnh dưỡng của Tiên Cô. Đang đứng ngắm, thì bỗng thoảng một trận gió đưa mùi thơm của hoa mai, Quốc Trinh lên tiếng:
Tiên Cô lặng lẽ cười, đưa phất trần chỉ ba gian nhà trước mặt mà rằng:
La Thái hỏi:
Quốc Trinh tiếp:
Tiên Cô đáp:
Hai người đều vội hỏi:
Tiên Cô đáp:
Ba người lại quay về trung đường ngồi.
Tiên Cô cất lời:
La Thái, Quốc Trinh đều không giấu nổi kinh ngạc, bàng hoàng:
Nhân đó hỏi:
Tố Cô đáp:
Quốc Trinh lại hỏi:
Tiên Cô đáp:
Tránh đời không tránh Tần
Người Tần mà rất thân
Giang sơn khéo xoay chuyển
Phong cảnh giả thành chân .
Thấy rau La rau Thái
Hái mặt sóng ngọn Tần
Chúa tôi mừng tái ngộ
Duyên nợ xe nên gần.
Hai người lắng nghe kỹ, đều trầm ngâm nghĩ ngợi, Quốc Trinh cười nói:
Tiên Cô đáp:
La Thái lại thêm:
Quốc Trinh trầm ngâm một hồi, rồi cất tiếng rằng:
Tiên Cô đáp:
Liền đứng dậy đi vào bên trong, chẳng bao lâu đã thấy quay ra, nói ngay:
Quốc Trinh nghe ra, rạng rỡ mặt mày:
Quốc Trinh xin ra được gặp mặt. Tiên Cô đáp:
La Thái cười:
Quốc Trinh cũng cười đáp:
Họ Tần liền xin giấy bút viết một bài tuyệt cú sau đây:
Tập Khánh phường xưa ai nhớ không
Lầu cao ước hẹn sợi tơ lòng
Tình xưa nay được duyên tiên nối
Lá thắm vẫn tươi, ý vẫn nồng.
Viết xong, gấp lại cẩn thận, lại xin Tiên Cô đưa vào cho Doanh Doanh. Doanh Doanh xem xong, trầm ngâm không nói, Tiên Cô bèn khuyên:
Chẳng rõ Doanh Doanh có quyết chí xuất gia chăng, nhưng chỉ biết là từ ngày cùng Quốc Trinh gặp gỡ, giờ khắc nào quên, luôn mong ngày tái hợp. Nay lại thêm chồng đã qua đời, cha mẹ đều mất cả người chú họ là Đạt Hề Tuân giờ đây chẳng còn nương tựa gì được nữa, coi như đã cách tuyệt hẳn. Gặp lại người xưa, chẳng phải là chuyện quá may mắn hay sao. Về phía Quốc Trinh, thì tưởng không nói hết nỗi mừng, nhưng trên mình vẫn còn mệnh vua chưa trả, không thể đưa Doanh Doanh về theo, nên phải thưa với Tiên Cô, hãy xin tạm để Doanh Doanh ở lại am Tiểu Bồng Doanh, đợi cả hai về triều phục mệnh, thưa lại với Quốc Mô, sau đó sẽ sai người tới đón. Còn bây giờ chỉ gặp nhau qua cửa sổ, Doanh Doanh thấy hiện nửa người, mà vẫn không chịu ra. Quốc Trinh thấy Doanh Doanh vẫn chẳng khác xưa, nhưng khăn áo theo kiểu đạo gia, nên càng giống như tiên nữ giáng trần. Bốn mắt nhìn nhau, buồn vui lẫn lộn, chẳng ai nói một lời.
Chính là:
Tương tư tình ý không cùng
Lặng im mà chứa muôn lòng ái ân.
Đêm hôm đó, Quốc Trinh cùng La Thái không thể ra đi kịp, phải ở lại trong am, Bạch Tiên Cô thắp sáp, pha trà, cùng hai người bàn chuyện xa gần. Sau đó, nói tới mấy câu thơ của La Công Viễn.
Quốc Trinh suy luận:
Tiên Cô cũng bàn thêm:
"Bao giờ phu nhân có được cuộc gặp gỡ thì cũng là lúc Giang Quý nhân được quay về nơi cũ". Thì ý tứ câu này ra sao đây?
Hai người bàn luận, chỉ thấy La Thái cúi đầu ngẫm nghĩ, bỗng dậm chân mà nói rằng:
Tiên Cô vội hỏi:
La Thái thì thầm:
Quốc Trinh gật đầu:
Tiên Cô cũng nói:
La Thái đáp:
Tiên Cô tiếp:
Đêm ấy không có chuyện gì khác.
Ngày hôm sau, Tiên Cô ra nhà tìm Doanh Doanh hỏi chuyện:
Doanh Doanh cười thưa:
Tiên Cô nghe ra, vừa kinh ngạc vừa vui mừng, dậm chân:
Nguyên là Mai Phi trước đây vẫn ở cung Thượng Dương, cam chịu những ngày lạnh lùng, nghe tin An Lộc Sơn phản loạn, càng thêm giận con tiện tỳ phì nộn Dương Ngọc Hoàn, thủ phạm gây ra cơn trốn chạy vào Thục. Vua những muốn cho Mai Phi cùng đi, nhưng bị Quý Phi ngăn trở, đành bỏ mặc mà thoát một mình. Lúc này các cung, các viện thi nhau trốn chạy. Mai Phi nghĩ ngợi: "Thuở xưa mang ơn thương yêu của thánh đế, nay tuy bị bỏ quên, nhưng nào phải vua phụ ta đâu, chính ta phụ vua đấy! Nếu bằng không sớm tìm cái chết mà thoát, tất rơi vào tay giặc làm hoen ố". Khóc lóc một hồi, lấy một dải lụa trắng, ra ngay cây mai già trước sân thắt cổ mà chết. Hơi như đã tàn, bỗng có người cứu xuống, mở mắt ra nhìn, thì một người đàn bà mặt mũi rất thùy mị, đội mũ vân quan đứng ngay trước mặt. Mai Phi khẽ hỏi:
Người này đáp:
Liền lấy ngay trong tay áo ra một con lừa cắt bằng giấy, đặt trên mặt đất, chúm môi thổi nhẹ, biến ngay thành một con lừa trắng vừa to vừa đẹp, đủ cả yên cương, đỡ ngay Mai Phi lên, dặn kỹ:
Nói xong, vỗ vào mông lừa một cái, lừa dậm chân bay thẳng lên không .
Mai Phi dẫu có sợ hãi, nhưng cũng chẳng xuống được nữa, chỉ còn cách tay nắm chặt dây cương lụa, nhắm tít hai mắt, nghe tiếng gió rít mạnh, biết là đang bay rất nhanh. Chẳng mấy chốc, đã xuống tới đất mở mắt ra nhìn bốn bên đều là núi, lừa cứ thẳng phía trước mà đi ngay vào cổng am Tiểu Bồng Doanh, gặp ngay La Tố Cô ân cần tiếp đãi giữ lại. Lúc này vẫn còn chưa dám nói rõ lai lịch, cũng bởi Tố Cô thấy con lừa trắng bay vút lên trời ngỡ Mai Phi là tiên nữ, nên không dám cặn kẽ hỏi nguồn gốc.
Trong bài thơ của La Công Viễn, quả có chứa đủ ba chữ Giang Thái Tần, mọi người chưa hiểu, nhưng Mai Phi thì biết rõ. Nay thấy người đến am là La Thái, lại càng hợp với mấy câu thơ. Doanh Doanh thì lại đã cùng Quốc Trinh gặp gỡ, những điều trong bài thơ đã bắt đầu ứng nghiệm. Lại nghe hai kinh đã khôi phục, thượng hoàng sắp trở về, nên mới đem thực tình nói với Doanh Doanh, Doanh Doanh thưa lại với Tố Cô, để nhờ La Thái tâu lên triều đình. Vừa may La Thái đoán ra mọi sự, Tố Cô hỏi lại. Nghe Doanh Doanh kể rõ đầu đuôi, Tố Cô mười phần vui mừng, kinh hãi, gặp Mai Phi làm lễ triều kiến. Mai Phi nâng dậy mà rằng:
Tiên Cô nhận lời, quay ra bàn bạc với La Thái. La Thái cùng Quốc Trinh xếp đặt, trước tiên trình bày cho Quảng Bình Vương rõ ràng mọi sự. Quảng Bình Vương liền tuyển cung nữ ở Đông cung, tìm những người hầu hạ cũ ở nội cung, đến ngay Tiểu Bồng Doanh, nhận mặt rõ ràng là Mai Phi, rồi liền đăng biểu trình Túc Tông. Về phía La Thái, cũng viết biểu lên Túc Tông, việc Quốc Trinh gặp gỡ, Doanh Doanh định về với Quốc Trinh làm vợ thứ, nhưng vì can qua ngăn trở, nay may cũng gặp lại ở Tu Chân quán, tuy là cháu họ của Đạt Hề Tuân, nhưng trong lòng vẫn ghét việc hàng giặc của Tuân, nên đã nguyện làm đạo cô, tự thề sẽ trọn đời tu luyện, với khí tiết như thế, tưởng cũng nên gia ơn.
Túc Tông xem cả hai tờ biểu, một mặt sai người thưa với thượng hoàng, một mặt sai hai nội giám dẫn theo cung nga mấy người, đến Bạch Vân Sơn, am Tiểu Bồng Doanh đón Mai Phi về cung cũ, sẵn đợi thượng hoàng hồi loan. Lại dặn quan sở tại, hậu thường cho La Tố Cô chờ ngày thượng hoàng tuyên dương sau. Cũng không quên ban ngay chỉ, cho phép Đạt Hề Doanh Doanh về với Tần Quốc Trinh làm vợ thứ, vẫn được cáo phong đấy đủ.
Lúc này Quốc Trinh cùng La Thái quay lại Tiểu Bồng Doanh chào Bạch Tiên Cô, lên ngựa về triều, giữa đường vừa gặp chiếu ban xuống, liền sai người về ngay Tiểu Bồng Doanh, hãy đem theo vài gia nhân của Đạt Hề Tuân rồi cùng với đoàn nội giám đón Mai Phi về kinh. Mai Phi cùng Doanh Doanh liền từ biệt Bạch Tiên Cô, ngay ngày hôm sau lên đường. Mai Phi đã có nội giám cùng cung nga hộ tống hương xa bảo mã, nhằm Tây Kinh mà đi. Doanh Doanh cùng gia nhân cũng theo sau thành một đoàn. Mai Phi đi trước, có nội giám giữ bình cắm cành mai, hương bay mấy dặm, ai ai cũng ngạc nhiên, ngợi ca. Trước lúc lên đường, Mai Phi còn kịp làm tờ sớ, sai trung sứ ngày đêm mang về trình Đường Minh Hoàng.
Chính là:
Nhớ thuở Đông Lâu xưa hiến phú
Còn nay cổ miếu lại dâng thơ.
Chẳng biết về sau sự thể ra sao, xin xem hồi tiếp theo.