Tuyết mỗi lúc mỗi đổ xuống như muốn dập vùi vạn vật, cả ngàn dặm mênh mông trắng xoá một màu...
Từ phía ngoàøi thành Khai Phong, hai bóng ngựa lướt bay trong mưa tuyết...
Con ngựa dẫn đầu chở một gã thiếu niên, mình mặc áo choàng da thú, hai bàn tay đút vào túi áo nhưng dáng chừng khôg có vẻ gì lạnh lắm.
Con ngựa được dắt theo sau trên lưng nằm vắt ngang một cái thây người. Hai tay và hai chân của cái thây đong đưa theo nhịp bước của ngựa, quặt quà quặt quại.
Hai con ngựa đều là laọi tuấn mã nhưng gã thiếu niên, trái lại, là một gã con trai lem luốc u xù...
Gã hơi cúi mặt xuống, chiếc nón rộng vành cụp mí, gã thúc ngựa đi chầm chậm giữa cơn mưa tuyết dập dồn, y như kẻ nhàn nhã dong ngựa dạo chơi. Gã không ngẩng lên nhưng ngựa vẫn nhằm thẳng con đường trước mặt dẫn ngay vào một trang viện đồ sộ nguy nga...
Hàng hàng lớp lớp những dãy nhà ngang dọc trang viện vượt hẳn lên giữa vùng tuyết trắng mênh mông.
Cửa cổng đi vào mở hoác, không một vết tích di động ý chừng năm này tháng khác không đóng lại một lần nào.
Bên trong, dãy hành lang dài thăm thẳm, hai bên đường dán đầy những cáo thị, lớp mới lớp cũ chồng mí lên nhau. Có tấm bị gió lâu ngày tróc góc phất phơ, nét chữ lờ mờ không rõ có tấm như mực vừa ráo, hồ dán hãy còn mềm.
Nhưng tuyệt nhiên, ãy hành lang trống lạnh, không một bóng người thấp thoáng.
Xế vào bên trong được chắn bằng một tấm rèm tuyết bám lấm tấm và ở xéo bên góc trái, một gian phòng khá rộng. Điều kinh lạ hơn hết là gian phòng rộng đó không bày xếp một vật gì, chỉ đặt hơn mươi cỗ quan tài, có cái đã đậy nắp, có cái chưa, y như hãy còn đợi người mang thây tới liệm.
Gần cửa ra vào, hai người mặc áo đen lấy quan tài làm bà, đang ngồi đối ẩm. Xích vào bên phải có ba người khác, hai người ngồi đối diện nhưng nét mặt lạnh như tiền, không thấy ai nhếch mép, người thứ ba là một gã cụt tay, và thay vào chỗ cụt đó là một chiếc móc sắt, trông chừng nặng cả mấy mươi cân.
Đứng ngoài xa, thấy cái móc giáng xuống, ai cũng có thể nghĩ rằng nắp quan tài nếu không vỡ ra thì ít nhất cũng thủng một lỗ lớn, không ngờ chỉ thấy bay lên một hạt đậu phộng rang, và kỳ diệu hơn nữa là chiếc đĩa đựng đậu để trên nắp quan tài không hề lay động.
Hai người ngồi bên kia, chén rượu không ngừng và người ngồi bên phải, cứ mỗi lần nốc cạn một chén rượu lại cong lưng ho sặc sụa. Nhưng vừa dứt cơn ho, một chén khác lại cạn theo, hình như uống rượu và ho là công việc thường xuyên không thể thiếu của lão.
Phía bên trái của phòng này là cửa trống đi vào đại sảnh. Đó là một phòng khách rộng thênh thang, bày nhiều chiếc bàn dài. Trên bàn rượu thịt ê hề, nhưng lạ làm sao, mỗi bàn chỉ có một người ngồi, lại ngồi ngay ở đầu bàn, in hình là họ không chịu ngồi chung và ngồi dưới ai cả.
Số bảy người này, không ai quá hơn ba mươi mốt ba mươi hai tuổi, nhưng bằng vào dáng cách, khí phách của họ không phải là nhỏ. Trong ánh mắt của họ, chừng như chẳng có một ai.
Nhìn không khí chung, những người này in hình rất quen nhau mà cũng in hình thật xa lạ, thái độ của họ rất kỳ dị ...
Qua khỏi đại sảnh, lại thêm một dãy hành lang dẫn tới gian phòng khác, hình như là ngôi nhà chính nhưng bên trong im lặng như tờ.
Giữa phòng, dưới ánh sáng của ngọn bạch lạp lờ mờ, có ba lão già tóc hoa râm, một người như sáp vàng, hình vóc ốm yếu, ngồi dựa trên chiếc phản hình như bị bệnh lâu ngày.
Người thứ hai mặt trắng, dáng điệu ung dung, dưới đôi mày xếch khỏi thái dương là đôi mắt long lanh như ngọc, hai bàn tay trắng muốt, chứng tỏ rất rạng rỡ một thời trong tuổi hoa niên.
Người thứ ba râu tóc dựng lên chơm chởm như cước, đôi mắt lồ lộ tựa ốc nhồi, hai vạt áo mở phanh bày lông ngực xồm xoàm, y như không bao giờ biết cái lạnh giữa trời mưa tuyết.
Cả ba người ngồi quây bên chiếc phản, kế bên là một chiếc bàn nhỏ, trên đó, nhiều mảnh giấy xếp mở la liệt, và kế bên màn là nhiều sợi thắt lưng đủ màu sắc, cũ mới khác nhau.
Người có râu quai nón mắt ốc nhồi đang rút trong một sợi thắt lưng lấy ra một cuốn sách nhỏ, trao cho người mặt áo trắng, người này coi theo đó kéo ra một tờ giấy lớn.
Cả ba người lặng lẽ làm việc, sắc mặt trầm trầm...
Qua một lúc lâu, người mặt trắng chợt thở dài :
Người mặt vàng như bệnh hé một nụ cười thật mỏng :
Người có râu quai nón đập tay xuống mặt bàn :
Giọng nói của ông ta tỏ vẻ bất phục nhưng người mặt vàng vẫn mỉm cười :
Khung cảnh bên trong trang viện im lìm diễn tiến, bên ngòi gã thiếu niên dẫn ngựa chở thây người cứ chầm chậm đi vào.
Tới sát cổng, gã nhảy xuống cặp lấy chiếc thây người lững thững đi vào, bỏ lõng hai con ngựa đứng bên ngoài.
Bước lên bực thềm, gã đưa tay hếch nhẹ chiếc nón ra sau, khuôn mặt lộ hẳn ra rạng rỡ. Thật là tương phản, con người gã xốc xếch lem nhem bao nhiêu thì khuôn mặt gã khôi ngô tuấn tú bấy nhiêu. Sắc diện gã, gần như lạnh nhạt, nhưng vành môi tuy không hé mở, mà luôn luôn phảng phất một nụ cười tươi.
Gã vừ đi vừa khẽ liếc lên bức tường dán đầy cáo thị. Đó là những tờ cam kết trọng thưởng ai giết được người trong cáo thị ghi tên. Lẽ tự nhiên, toàn là những tên gian ác trong Hắc đạo giang hồ.
Bên dưới những cáo thị ấy không thấy đóng dấu ký tên như những cáo thị ở nha môn, mà chỉ đề vẻn vẹn bốn chữ "Nhân nghĩa trang chủ".
Tia mắt gã thiếu niên dừng lại trên tờ cáo thị mà dấu mực đã nhiều chỗ phai màu, bên trên ghi :
Gã thiếu niên đưa tay gỡ tờ cáo thị và đi thẳng vào trong.
Có lẽ đi đến đây nhiều bận, gã thiếu niên cử động rất quen thuộc, và hai người áo đen ngồi gần quan tài vừa liếc thấy gã vội đứng lên...
Buông chiếc thây người rơi xuống, gã thiếu niên khẽ vặn mình cho thoải mái và xoè ngửa bàn tay...
Người cụt tay đứng dậy cặp lấy chiếc thây đi thẳng ra hậu viện. Một người còn lại rót chén rượu trao qua, gã thiếu niên ngữa cổ uống cạn. Không ai nói với ai một tiếng. Họ làm việc y như những người câm.
Tới trước mặt ba lão già, người cụt tay ném chiếc thây xuống đất.
Lão già mặt trắng khom mình xuống lật mặt chiếc thây :
Lão có râu quai nón đứng dậy vỗ tay :
Gã cụt tay bây giờ mới mở miệng :
Lão râu quai nón nheo nheo mắt :
Lão chưa nói dứt, chiếc móc sắt từ cánh tay cụt đã quất ngang...
Như một luồng gió quạt ngang, lão râu quai nón hết hồn nhảy tránh...
Gã cụt tay vẫn đứng yên một chỗ, lão già mặt vàng lật đật kêu lên :
Lão râu quai nón nheo nheo mắt nhìn Lãnh Tam và cất giọng cười khì khì...
Mặt Lãnh Tam vẫn lạnh như đồng và bàn tay còn nguyên vẹn chìa ra trước mặt :
Lão râu quai nón xôm tới :
Lão mặt trắng ngắt lời :
Lão mặt vàng nhướng mắt :
Không biết tên, mà từ trước tới nay cũng không nghe ai nói gặp hắn đi lại trên giang hồ. Không một ai biết được võ công của hắn cao hay thấp, trong vòng năm nay chỉ mình hắn giết luôn bảy người, bảy người này chúng ta cáo thị đã lâu nhưng chưa ai giết được, và võ công của họ khá cao. Không biết gã thiếu niên này giết họ bằng cách nào ? ...
Lão mặt vàng cau mày :
Lão mặt trắng lắc đầu :
Lão râu quai nón bật cười :
Lãnh Tam quắc mắt, lão râu quai nón cười khịt khịt, thối lui. Lão mặt vàng bật cười hỏi tiếp :
Lão mặt trắng chỉ tay về thây Lai Thu Hoàng :
Lão mặt vàng cúi mặt suy nghĩ, lão râu quai nón cũng trố mắt ngẩn ngơ ...
Lãnh Tam lại xoè tay :
Lão râu quai nón sặc cười :
Lãnh Tam lại quắc mắt, nhưng lão mặt vàng đã nói :
Lãnh Tam vẫn đứng sững, xoè tay :
Lão mặt vàng bật cười :
Lãnh Tam đón lấy tiền, không nói một lời, quay đầu đi thẳng.
Lão râu quai nón nhìn theo, toét miệng cười :
Lão mặt vàng gật đầu :
Lão râu quai nón cười :
Lão mặt trắng cười nói với người anh cả :
Một tay kẹp lấy thi thể của Lai Thu Hoàng và khi ném vào quan tài xong, Lãnh Tam để túi bạc trước mặt gã thiếu niên, với tay bưng chén rượu ngửa cổ ra tu một hơi dài.
Gã thiếu niên xách túi bạc, lại uống một hơi ba chén rồi vòng tay quay mình đi ra
cửa.
Lãnh Tam bước tới ngăn giữa cửa, nhưng vẫn không nói một lời.
Gã thiếu niên khẽ cau mày :
Lãnh Tam vẫy tay về phia đại sảnh :
Gã thiếu niên lắc đầu :
Nói mấy tiếng mà y như cảm thấy quá nhiều, Lãnh Tam lặng thinh, cứ đưa tay cản ngang giữa cửa.
Gã thiếu niên lách sang bên trái, Lãnh Tam lại giăng tay qua phía đó, gã thiếu niên mỉm cười, nhưng không kịp thấy bằng một thân pháp gì, chỉ thấy bóng nhoáng lên, gã đã qua mặt Lãnh Tam và ung dung đi ra phía cửa.
Biết theo không kịp, Lãnh Tam vung chiếc móc sắt quật ngược lại đầu mình...
Vừa quay lại vẫy tay như tỏ ý chào một lần chót, kịp trông thấy Lãnh Tam tự đập đầu mình, gã thiếu niên lao mình một cái đã đến sát một bên bắt lấy cái móc sắt.... Thật là may, đầu cái móc chỉ vượt ngoài da, tuy vậy, một giòng máu cũng đủ chảy xuống trán Lãnh Tam.
Gã thiếu niên cau mặt :
Đưa tay vuốt giòng máu, Lãnh Tam nói một cách tỉnh khô :
Gã thiếu niên sững sốt và như chợt biết ra cái lối nhận trách nhiệm của con người kỳ quặc này, gã thở dài bước trở vô :
Theo ta!
Kéo tay gã thiếu niên đi vào đại sảnh, Lãnh Tam nói thêm một tiếng :
Và chỉ một tiếng thôi.
Hắn quay đầu đi thẳng.
Nhìn theo bóng dáng con người dị hợm, gã thiếu niên bật cười và ngồi xuống đầu
bàn.
Bên kia đầu chiếc bàn đó là một nhà sư trẻ tuổi, khoảng trên dưới ba mươi, mình mặc áo cà sa màu xanh, hai tay buông xuôi, hình như là chưa rớ tới món ăn nào cả...
Thấy nhà sư không nói đến mình, gã thiếu niên mỉm cười với tay lấy hồ rượu rót đầy một chén. Nhà sư vụt cất giọng trầm trầm :
Gã thiếu niên sửng sốt nhưng lại mỉm cười :
Gã buông chén và bước sang bàn kế...
Bàn này đã ngồi sẵn một người thiếu niên trắng trẻo ăn mặc rất sang trọng, vừa nhìn thấy gã định ngồi xuống, thì hắn đã gắt lên :
Gã thiếu niên đứng lên không nói một lời rồi bỏ đi sang bàn khác...
Kẻ ngồi ở bàn thứ ba là một thiếu nữ mặc áo trắng tuyệt đẹp, thấy gã thiếu niên bước qua, nàng không nói nhưng tia mắt chiếu lên hằn học.... Thấy thái độ của nàng, gã thiếu niên không ngồi, bỏ sang bàn khác nữa...
Người ngồi đầu bàn thứ tư là một đạo nhân ốm lỏng khỏng, vừa thấy gã thiếu niên bước sang, lão vội phóng mình lên, cứ mỗi đĩa thức ăn, lão phun vào một bãi nước miếng rồi lặng thinh ngồi xuốngvẻ mặt bình thản đến lạnh lùng.
Gã thiếu niên khẽ mỉm cười và rảo bước sang bàn thứ năm.
Bàn này ngồi sẵn một người đàn bà vừa lùn vừa mập, bên má có một cục bướu thật to, đang cắm đầu ăn uống hồng hộc, y như sợ có ai ăn hết.
Gã thiếu niên đứng nhìn do dự, chợt nghe bàn bên có tiếng cười :
Gã thiếu niên quay lại, thấy người gọi mình là một tên ăn mày chột hết một mắt, áo rách bám đầy bụi đất, đứng cách một bàn nhưng vẫn nghe thấy mùi hôi.
Không một chút đắn đo, gã thiếu niên bước qua ngồi xuống, mỉm cười :
Tên ăn mày há miệng cười băn văng rau đầy mặt bàn :
Vừa nói hắn vừa trở đũa gắp một miếng thịt đang nhai lầy nhầy trong miệng đưa thẳng tới trước mặt gã thiếu niên.
Chỉ nhìn vào hàm răng đầy những bợn của hắn cũng đã buồn nôn, thế mà gã thiếu niên vẫn điềm nhiên há miệng đón lấy nhai một cách ngon lành.
Những người ở bàn kế cận xem chừng là chuyện hứng thú, họ quay đầu nhìn sững quên cả ăn uống...
Ngay lúc đó, một tên đồng tử bưng hồ rượu từ trong đi lại, lễ phép cúi đầu :
Vừa nói gã vừa châm đầy hai chén.
Gã thiếu niên mỉm cười vui vẻ :
Cho tay vào túi, gã rút ra một bạc nặng độ trăm lượng nhét vào tay tên đồng tử. Tên đồng tử hết sức ngạc nhiên.
Gã thiếu niên lại cười :
Tên đồng tử mấp máy đôi môi mà không nói ra tiếng. Hắn ở đây đã từng thấy không biết bao nhiêu là khách hào phóng, nhưng chưa bao giờ gặp một người quá rộng rãi như thế !
Tên ăn mày một mắt bưng chén đưa lên :
Hai người ngửa cổ đánh trót một cái, hai chén đôi bên đều cạn sạch.
Tên ăn mày chợt thấp giọng :
Không đợi gã nói hết, gã thiếu niên cho tay vào túi lấy ra bốn phong bạc, đẩy tới trước mặt tên ăn mày, vừa cười vừa nói :
Năm trăm lượng bạc là tiền công diệt trừ Lại Thu Hoàng, nhất định phải gian khổ lắm mới có được món tiền ấy, thế mà gã thiếu niên lại cho một cách không tiếc tay.
Nhét hết bốn phong bạc vào lưng, tên ăn mày lại thở ra:
Cởi phắt chiếc áo choàng lông thú trao qua, gã thiếu niên mỉm cười :
Đón lấy chiếc áo, tên ăn mày một mắt thổi thổi trên lông áo và gật gù :
Lật qua lật lại một chút, hắn tiếp :
Thái độ tên ăn mày thật là đáng ghét, người ta đối xử quá tốt, đã chẳng có một tiếng tạ ơn, lại còn chê lên chê xuống. Thế mà gã thiếu niên không có gì bộc lộ vẻ khó chịu, và với chiếc áo mỏng trên mình, chừng như không chút cảm thấy lạnh lẽo trong cơn gió tuyết, gã tươi cười như không...
Nhưng một tên đại hán mặt đỏ như gấc chín, ngồi ở bàn bên có lẽ không dằn được, đập bàn quát lớn :
Tên ăn mày quay lại, hất mặt :
Người họ Kiều xô chén đứng dậy :
Tên ăn mày đâm ra lúng túng và hắn vụt cười khan :
Thái độ đầu voi đuôi chuột của tên ăn mày làm cho gã thiếu niên ban đầu hơi ngơ ngác, nhưng cuối cùng cũng bật cười.
Người họ Kiều bước qua vỗ vai gã thiếu niên và chỉ tên ăn mày nói :
Làm bộ như không nghe thấy, tên ăn mày một mắt bưng chén rượu ực cạn và đánh khà một tiếng :
Người họ Kiều giận dữ quay qua quắc mắt :
Nhưng người con gái có cục bướu nơi mặt đã vội kêu lên :
Kiều ngũ ca, con người ấy quả đáng ghét, nhưng chửi hắn như thế cũng đủ lắm rồi, tha cho hắn đi !
Con người nàng tuy xấu hết chỗ chê, thế nhưng giọng nói lại trong vút lanh lảnh như tiếng ngọc khua, làm cho ai nghe cũng phải quay đầu lai...
Người họ Kiều dịu giọng gằn gằn :
Chờ cho người họ Kiều trở lại bàn ngồi xuống, Hoa Tứ Cô cười cười nói tiếp :
Người mặc áo đạo sĩ bây giờ mới lên tiếng :
Gã thiếu niên cảm thấy những kẻ có mặt nơi đây thật là dị hợm, nhưng gã cứ cười cười không nói một lời.
Thình lình từ phía trong dẫn ra một giọng cười rổn rảng :
Cùng với giọng cười tiếng nói, lão già mặt trắng từ trong nhà thả bước ra...
Trước hơn ai hết, tên ăn mày một mắt đứng phắt dậy toét miệng cười :
Kim đại hiệp dạy quá lời!
Và nhìn khắp mọi người, lão già mặc áo trắng nói tiếp :
Chỉ tay từ phải sang trái, lão nói rõ từng tiếng :
Chỉ tay đến gã thiếu niên, lão mặt trắng hơi khựng lại gượng cười :
Đoạn Hồn đạo nhân lạnh lùng nói :
Trước câu nói khinh bạc ấy, gã thiếu niên vẫn một mực tươi cười :
Lão già mặt trắng cố cười khoả lấp :
Nghe một người danh chấn võ lâm lại không tiếc lời khen ngợi một gã thiếu niên vô danh như thế, mọi người không hẹn cùng đưa mắt nhìn gã và lộ vẻ không tin tưởng...
Trước lời xưng tụng của một người có danh vọng võ lâm như thế, gã thiếu niên không tỏ vẻ gì đắc ý, và trước sự nghi ngờ của mọi người, gã cũng không lộ vẻ thẹn thùa, chỉ điềm đạm mỉm cười không nói.
"Hoa Sơn Ngọc Nữ" Liễu Ngọc Như đứng lên :
Người đẹp mở lời trước nhất, làm cho ai nấy đều quay mặt nhìn nàng. Lão già mặt trắng vòng tay :
Chớp chớp đôi mắt hạnh, Liễu Ngọc Như hé nụ cười như hoa nở :
Đằng hắng để lấy giọng, lão già họ Lý chậm rãi nói tiếp :
Kể đến đây, chừng như bị xúc động, lão già họ Lý thở dài :
Tin ấy truyền ra đã làm rúng động thiên hạ giang hồ. Ai cũng tin là có, không ai chịu cho đó là chuyện đồn vu vơ...
Thế là mọi con đường dẫn đến Hoành Sơn trở nên tấp nập và tự nhiên là trở thành những con đường máu. Vì nhiều kẻ nghĩ rằng cứ giảm đi một người, số đến Hoành Sơn thật thưa thớt thì chuyện tranh đoạt bảo vật sẽ giảm bớt gay go.
Thế là thay vì thẳng đến Hoành Sơn, dọc đường họ đã mở ra nhiều trận quyết đấu kinh hồn liên tiếp. Điều đau lòng hơn hết là những kẻ kữ hành, nhữn gkẻ thiện lương đến Hoành Sơn lễ Phật cũng lọt vào vòng thảm sát...
Nghe đến đây, những người có mặt đều lộ vẻ đau buồn, chỉ riêng Kim Bất Hoán và Đoạn Hồn vẫn tỉnh như không.
Lão già họ Lý thở dài kể tiếp :
Từ Nhược Ngu vọt miệng hỏi :
Lão già họ Lý gật đầu :
Từ Nhược Ngu nói bằng giọng đắc ý :
Từ Nhược Ngu nói suốt một hơi không nghỉ, dù cho ai lạ cũng dễ dàng nhận ra cái tật lớn của chàng, cứ nghe ai khen mình là kẻ kiến văn quảng bác, thì y nhhư rằng chàng sẽ nói mãi không ngừng.
Nhưng lão già họ Lý không khen tiếp, ông lặng thinh một lúc mới nói :
Kẻ ác mong đoạt được bảo vật, người ngay không muốn lọt vào tay Hắc đạo, nhưng dù kẻ ác hay người ngay đều quyết đoạt cho kỳ được.
Trong số này, kể cả trưởng môn quan trọng của chính phái võ lâm, kể cả những người đã quyết tâm từ lâu qui ẩn, hơn 200 người đã kết thành những nhóm nhỏ. Những nhóm này đã mở nên trận chiến đấu, kéo dài chín ngày đêm, biến chốn Hoành Sơn thắng cảnh thành nơi Võ Lâm Tuyệt Địa.
Ngừng lại bằng một tiếng thở dài ảo não, lão Lý tiếp :
Sau 19 ngày ác chiến, hơn hai trăm cao thủ đến Hồi Nhạn Phong chỉ còn lại 11 người, nhưng không một ai còn trọn vẹn công lực như xưa...
Tinh hoa của võ lâm đều chôn chặt trong trận ấy, nơi đáng gọi là Võ Lâm Tuyệt Địa, đáng hãi hùng ấy! Trong vòng năm mười năm nay, chuyện thảm sát võ lâm phải kể đến trận Hoành Sơn là kinh khủng nhất...
Kể đến đây, lão già họ Lý lim dim đôi mắt, những giọt nước mắt lăn dài theo
má...
Mọi người đều thông cảm sự xót xa của lão. Họ lànhững người sống sót, lão già mặt vàng bệnh hoạn là "Thiên hạ đệ nhất trí" Tề Trí, lão già mặt trắng này là "Bất dại thần nhân" Lý Trường Thanh và lão có râu quai nón tánh tình nóng nảy là "Ngưu Đầu" Lưu Thiên Vân.
Những người sống sót sau trận Hoành Sơn là những người một đời không vơi được ưu tư dằn vặt.... Vạn vật vụt chìm trong lặng lẽ, thật lâu Lý Trường Thanh mới nói tiếp :
Lý Trường Thanh ngừng một giây, mím môi chua xót :
Lý Trường Thanh đập tay xuống bàn, đôi môi nhếch lên cay đắng :
Chuyện tuy đã lâu lắm rồi nhưng đến đây vẫn thấy Lý Trường Thanh nãy còn run giọng :
Giọng nói của Lý Trường Thanh thấp dần và cuối cùng tắt hẳn. Một sự xúc động lan ra, mọi người có mặt đều cúi đầu ủ rủ...
Mấy phút trôi qua, "Hùng sư" Kiều Ngũ vụt đập tay xuống ghế :
Lý Trường Thanh thở dài buồn bã :
Hoa Tứ Cô gật đầu :
Thiếu niên lạ mặt vui vẻ nối lời :
Từ Nhược Ngu quắc mắt :
Gã thiếu niên cười cười :
Liễu Ngọc Như cười mũi :
Câu nói và nhất là giọng cười khinh miệt của cô gái có danh hiệu "Hoa Sơn Ngọc Nữ" vẫn không làm cho gã thiếu niên nóng mặt, gã vẫn đánh chữ làm thinh.
"Hùng sư" Kiều Ngũ dợm đứng lên theo thói quen không chịu nổi sự trái tai gai mắt, nhưng không biết sao lại làm thinh, vẻ mặt cứ hầm hầm...
Hoa Tứ Cô thì khẽ liếc gã thiếu niên ra chiều thiện cảm.
Thấy không ai nêu ý kiến gì thêm, Lý Trường Thanh nói tiếp :
Liễu Ngọc Như mỉm cười :
Lý Trường Thanh đón lời :
Lão lại đằng hắng và nói tiếp :
Kim Bất Hoán chồm mình tới :
Lý Trường Thanh thấp giọng :
Lẽ tự nhiên, không ai biết được của ai trong sự chôn dấu này cả. Chỉ có một người, chẳng những không ai dấu, mà còn kêu chỉ kỳ cùng chỗ chôn dấu độc môn. Người đó là "Vạn gia sinh Phật" Tử Ngọc Quan, vì họ Tử được mọi người biết tiếng là trọng nghĩa khinh tài, là người duy nhất được võ lâm tôn sùng và tín nhiệm.
Trong số 11 người sống được tới đỉnh Hồi Nhạn Phong, đã có bảy người chỉ chỗ chôn di vật cho Tử Ngọc Quan biết, với lời căn dặn nếu họ bị chết đi thì gởi gấm cho họ Tử trao lại cho kẻ truyền nhân. Thế nhưng họ còn sống, họ trở lại chỗ chôn báu vật ấy thì hỡi ôi, di vật đều mất hết, chỉ còn có một giòng chữ để lại : "Các vị đã mắc bẫy rồi!"
Lý Trường Thanh nói đến đây, không khí vụt hơi nhốn nháo...
Câu chuyện thật là kéo từ bất ngờ này đến bất ngờ khác, đúng là "sự hữu di ba"!
Từ Nhược Ngu lên tiếng trước :
Lý Trường Thanh chận lời :
Và nếu có thực như thế, thì dụng tâm của Tử ngọc Quan cũng không có gì khó hiểu; vì đó là lối "nhất võng đả tận", một mẻ lưới tóm hết võ lâm anh kiệt. Một việc làm dễ dàng thu được bí mật võ công của các môn phái, một việc làm có thể trở thành bá chủ võ lâm!
Không khí đại sảnh vụt năng trầm trầm bởi câu nói sau cùng của lão già họ Lý...
Thật lâu, Ngũ Đài Sơn Thiên Pháp thiền sư mới mở lời :
Giọng nói của nhà sư phái Ngũ Đài làm cho không khí sống động lại. Và Lý Trường Thanh trầm trầm trả lời :
Nghe Lý Trường Thanh nói, mọi người đưa mắt nhìn nhau tái mặt...
Lý Trường Thanh nói tiếp :
Từ Nhược Ngu vụt hỏi :
Lý Trường Thanh lại thấp giọng :
Thiên Pháp đại sư gật đầu :
Lý Trường Thanh thở dài :
Chấm dứt câu nói bằng cách vẫy tay ra hiệu cho hai tên gia đồng, một tên đi đóng các cửa sổ, một tên đem bút mực và giấy phân phát cho từng người, và Lý Trường Thanh cho treo lên giữa sảnh đường một khuôn lớn do nhiều tờ giấy dán lại...