Một cỗ quan tài đen kịt nhẹ nhàng đáp xuống xác chết của Tật Phong thú, sức nặng của nó khiến yêu thú hơi lún vào nền đất.
Tịch Diệt đạo tổ lặng lẽ chờ đợi A Nhất lên tiếng. Trên mặt đất, A Nhất an tĩnh nằm đó, phó mặc cho trời.
Tà dương đã hoàn toàn ly biệt, thế nhưng đối với hai kẻ luôn sống bóng tối như bọn họ thì có ánh sáng hay không đã không còn quá quan trọng.
Trong cái bóng tối của tâm linh ấy, mặt trăng không mọc.
Màn đêm hé mở, lộ ra tròng trắng, mắt đen. Ánh sáng âm lãnh từ trong tròng trắng kia làm A Nhất có chút dễ chịu.
Ánh sáng dịu dàng mang theo thương cảm lặng lẽ vấn tâm hắn.
A Nhất nhoẽn miệng cười, giọng nói cao lanh lãnh của trẻ nhỏ vang lên:
Từ lúc nhỏ hắn đã mất đi khả năng nói, thế nhưng hắn vẫn nhớ rõ thanh âm của mình lúc còn có thể vui đùa trong thôn nghèo. Thiếu niên dùng thiên Âm chi hồn mô phỏng thanh âm đó.
A Nhất hi vọng vị tiên nhân hiền lành này sẽ không trách cứ:
Ánh mắt ở trên cao vẫn lẳng lặng lắng nghe. Tròng mắt cũng tốt, không xa với như mặt trăng.
A Nhất cảm thấy tròng mắt kia rất đẹp. Hồi nhỏ hắn cũng từng thấy lão thầy đồ ở đầu thôn đứng ngắm trăng ngoài hiên vắng. Lúc đó hắn không hiểu, bây giờ thì hắn đã hiểu được.
Đôi khi có những nỗi niềm mà chỉ trăng sao mới có đồng cảm.
Một lát sau, A Nhất thốt lên:
Hắn cười hì hì:
Có lẽ vì lâu rồi không được thổ lộ tâm tư nên nước mắt lặng lẽ rơi rồi vỡ òa.
A Nhất méo máo:
Có lẽ bởi vì mặt đất lạnh lẽo nên A Nhất nhanh nhận ra mình đã quá trớn, hắn thu lời muốn nói, ánh mắt buồn bã cố kìm lòng. Tay áo trắng đẫm máu quệt gương mặt ướt đẫm của mình.
Sự bình thản của con mắt trên cao khiến A Nhất cảm thấy ấm áp:
Do Vô Âm Vô Ảnh nên hắn không rõ người nói câu kia có phải thầy đồ đầu thôn hay không.
Vị Phật ở trên đỉnh Tu Di cũng rất ít nói.
A Nhất cười tự nhạo:
Im lặng lại phủ kín không gian mộng ảo khiến lòng Tịch Diệt đạo tổ tê dại.
Lão muốn mở miệng an ủi thế nhưng lời an ủi tốt nhất trong lúc này chính là yên lặng.
Đến lúc dường như ngàn năm đã trôi qua, A Nhất mới thành khẩn nói:
Hắn vội vàng quỳ dậy, liên tục đập đầu:
A Nhất biết, nếu tiên nhân muốn mạng của hắn, cho dù hắn không tình nguyện thì lại có thể thế nào? Bởi thế hắn chỉ có thể đập đầu cầu xin:
Nghe đến đây, Tịch Diệt lão tổ không nhịn được nữa quát lớn:
A Nhất gục đầu trên đất, gương mặt biến dạng bởi đau khổ tột cùng, ấm ức hóa thành thanh âm thốt lên từ miệng hắn:
Chẳng lẽ đại tiên pháp lực vô biên lại không thể chứng cho hắn chỉ ước nguyện nhỏ nhoi đó hay sao.
Tiếng bước chân đều đều vang lên. Một lão nhân bước ra từ trong bóng đêm, đi đến trước mặt hắn.
Trên người mặc áo dài trắng viền đen, bên ngoài khoác choàng bào đen viền trắng, chân đi giày đỏ rực. Mái tóc trắng chẻ đều hai bên, xõa đến ngang lưng, một tay chấp sau lưng, một tay vuốt chòm râu bạc trắng, dáng vẻ tiên phong đạo cốt.
Tịch Diệt đạo tổ cúi đầu nhìn thiếu niên đang phủ phục trên đất thở dài. Âm thanh cỗ lão tuy uy nghiêm nhưng lại không hề nặng nề, ra lệnh:
Bá khí của vị đạo tổ khiến pháp tắc thiên địa ầm ầm dao động. Có một sức lực vô hình chậm rãi nâng A Nhất đứng lên.
Tịch Diệt đạo tổ ngừng vuốt râu, phất nhẹ tay, nhãn quang của A Nhất lại mở.
Nhìn gương mặt sững sờ của A Nhất, Tịch Diệt nhíu mày nói:
A Nhất ngạc nhiên hỏi, vẫn là cái thanh âm thanh thúy của trẻ nhỏ:
Tich Diệt lão tổ tức giận, trợn mắt nói:
Chính khí trùng thiên của lão sáng mù mắt A Nhất.
Sự thật là lão làm phép để tự tỏa sáng.
Dạy đồ đề là phải dạy từ lúc còn trong trứng nước. Lão làm sao có thể bỏ lỡ cơ hội này.
Chính khí thay lời nói:
Trong mắt của A Nhất, vô số thánh nhân xuất hiện, đồng loạt gật gù chứng giám.
Dĩ nhiên cảnh tượng này không phải là do A Nhất ngộ đạo mà sinh ra. Tất cả đều là do Tịch Diệt đạo tổ sử dụng pháp lực.
Ở bên trong đám thánh nhân, A Nhất loáng thoáng nhìn thấy bóng dáng của vị thầy đồ sống ở đầu thôn, thế là hắn cũng gật gù đồng ý.
Vị lão tổ khoái chí, cười lên khằng khặc: