Dịch giả
: Lương Hiền
Ngày Hai mươi tám tháng Ba, bệnh tình của Phòng Phong Ý Ánh trở nên nguy kịch, tộc trưởng tộc Phòng Phong vội vàng tới Thanh Khâu, thăm con gái.
Vài ngày sau, các trưởng lão nhà Đồ Sơn và tộc trưởng tộc Phòng Phong cùng bố cáo thiên hạ: Phu nhân Phòng Phong đã qua đời.
Các dòng họ lớn trong Đại hoang đều cử người đến phúng viếng, nhưng không phải họ thật lòng thương tiếc Phòng Phong Ý Ánh, điều họ quan tâm là ai sẽ trở thành phu nhân tương lai của Tộc trưởng tộc Đồ Sơn. Tập tục của Trung nguyên quy định: Nếu người vợ qua đời, người chồng phải để tang vợ một năm, rồi mới được tục huyền. Thế nhưng một vài tộc trưởng các dòng họ, vì quá sốt ruột, đã sai người dò hỏi các vị trưởng lão về sở thích của Cảnh.
Lo liệu xong tang lễ, Cảnh về sống trong thành Chỉ Ấp.
Được sự cho phép của Hoàng Đế, Cảnh được phép ra vào Thần Nông Sơn thoải mái. Ngày nào chàng cũng lên Tiểu Nguyệt Đỉnh, nhưng không phải để vui cùng Tiểu Yêu, mà để chơi cờ với Hoàng Đế, theo yêu cầu của ngài. Họ chơi cờ trên một bàn cờ đặc biệt dành riêng cho Thần tộc. Bàn cờ tuy nhỏ nhưng là biểu trưng cả thế giới, giang sơn gấm vóc đều nằm trong đó. Những cuộc chiến tranh giành thiên hạ xảy ra liên miên. Vậy nên, họ thường mất mấy tháng mới chơi xong một ván cờ.
Tiểu Yêu ngồi bên cạnh vừa đọc sách y thuật vừa ngáp vặt.
Một tối nọ, cuộc cờ kết thúc.
Hoàng Đế nhìn bàn cờ, thở dài:
Tiểu Yêu bưng canh quả mai chua vào, ngó nghiêng bàn cờ, nhưng không hiểu gì, nàng hỏi:
Cảnh đáp:
Tiểu Yêu cười thật tươi, múc một bát canh dâng lên Hoàng Đế, rồi lại múc một bát khác mời Cảnh.
Hoàng Đế đột nhiên tấm tức:
Tiểu Yêu phì cười, phun cả canh ra ngoài:
Hoàng Đế nhìn Tiểu Yêu, lắc đầu:
Tiểu Yêu thoáng đỏ mặt, lầm bầm:
Cháu có đòi đi lấy chồng đâu!
Cháu không sốt ruột nhưng người khác có đấy! Nếu không, vì sao Phòng Phong Ý Ánh vẫn sống sờ sờ ra đó, cậu ta đã vội vã phát tang?
Tiểu Yêu liếc Cảnh, làu bàu:
Cảnh thản nhiên thừa nhận:
Tiểu Yêu trừng mắt nạt nộ Cảnh, nhưng khi chạm phải ánh mắt chàng, nàng bỗng thấy xấu hổ, nhưng hơn hết là niềm hạnh phúc ngọt ngào dâng tràn. Nàng cúi đầu, vờ tập trung vào việc uống canh, hai má ửng đỏ.
Cảnh thưa với Hoàng Đế:
Hoàng Đế nói:
Cho phép!
Thần muốn đưa Tiểu Yêu đi du ngoạn.
Hoàng Đế trầm ngâm không đáp. Cảnh thưa:
Hoàng Đế thở dài:
Ta biết, chỉ có loài cừu mới chịu để người ta nhốt trong chuồng, giống chim ưng nhất định phải thả về trời xanh. Ta cũng mong cháu con của mình mạnh mẽ như chim ưng. Nhưng có lẽ vì tuổi tác đã nhiều, ta cứ luôn lo lắng khôn nguôi về chúng.
Nếu Bệ hạ không yên tâm, ngài có thể cử thị vệ âm thầm đi theo chúng thần.
Tiểu Yêu càu nhàu:
Ông ơi, ông đừng quên cháu từng một mình phiêu bạt khắp nơi suốt mấy trăm năm nhé! Cháu đã tự nuôi mình khôn lớn!
Tiểu Yêu cũng cần ra ngoài hít thở không khí trong lành! Các cháu đi đi!
Cảnh vái lạy tạ ơn Hoàng Đế.
Nghe tin Tiểu Yêu sẽ đi du ngoạn với Cảnh, Chuyên Húc cực lực phản đối, nhưng Hoàng Đế đã cho phép, lại thêm Tiểu Yêu nhõng nhẽo van vỉ, Chuyên Húc không thể không thuận theo ý nàng. Tuy nhiên, hắn đặt ra điều kiện: Tiểu Yêu phải đưa Tiêu Tiêu và Miêu Phủ đi cùng.
Tháng Năm năm đó, Cảnh đưa Tiểu Yêu rời khỏi Thần Nông Sơn. Đoàn tùy tùng gồm Tĩnh Dạ, Hồ Trân, Hồ Á, Tiêu Tiêu và Miêu Phủ.
Đoàn người đi về phương Nam, đến Xích Thủy thì chuyển sang ngồi thuyền, tiếp tục xuôi xuống phía Nam, vào đến lãnh thổ Cao Tân.
Tiểu Yêu băn khoăn hỏi Cảnh:
Cảnh cười, đáp:
Vừa đi làm ăn, vừa có dự định khác.
Dự định gì?
Một trong số đó là du sơn ngoạn thủy.
Tiểu Yêu bước ra mui thuyền, dõi mắt nhìn khung cảnh quen thuộc, giận dỗi nói:
Cảnh đặt cút rượu Thanh Mai do chính tay chàng ủ vào tay Tiểu Yêu, và ôm chặt eo nàng:
Sống mũi cay cay, Tiểu Yêu ngả người vào lòng Cảnh, vừa nhấm nháp rượu Thanh Mai, vừa ngắm nhìn cảnh sắc hai bên bờ vùn vụt lướt qua.
Dọc đường đi, Cảnh đã giữ đúng lời hứa, họ thong thả thưởng ngoạn cảnh sắc núi non, sông nước, thi thoảng Cảnh cho thuyền cập bến, và đưa Tiểu Yêu đi thăm thú đó đây.
Tuy đã lưu lạc mấy trăm năm trong Đại hoang, nhưng Tiểu Yêu mới chỉ đi hết dải đất Trung nguyên, nàng chưa khi nào thực sự dạo chơi trên đất Cao Tân. Cảnh thì khác, từ nhỏ đã chịu sự giáo dục nghiêm khắc của nhà Đồ Sơn, để trở thành tộc trưởng tương lai, nên chàng đã theo đoàn thương lái của gia đình đi khắp mọi nơi từ rất sớm. Từ đất Cửu Lê tập trung nhiều loại sâu độc và thú dữ, đến vùng biển khơi gió mây biến đổi khôn lường, nơi nào chàng cũng từng qua. Bởi vậy, chuyến đi này, đối với chàng, chẳng khác nào về lại chốn xưa. Nơi nào có cảnh đẹp, nơi nào có đồ ăn ngon, chàng đều tường tận như lòng bàn tay. Chàng sắp xếp, bố trí mọi thứ hết sức chu đáo, Tiểu Yêu không cần phải bận tâm việc gì.
Từ ngày mẹ qua đời, đây là lần đầu tiên Tiểu Yêu cảm thấy nàng vẫn được chiều chuộng như một đứa trẻ, chẳng phải lo nghĩ điều gì, chẳng cần bận tâm việc gì, chỉ cần ăn cho thỏa, chơi cho đã.
Buổi tối, họ dựng lều trên đỉnh núi.
Tiểu Yêu cười bảo:
Nàng leo lên cây thoăn thoắt như loài khỉ, ngó nghiêng xung quanh, tìm nơi nghỉ ngơi thích hợp trên cây.
Cảnh lấy ra một ống ngọc, vặn mở nắp, mấy con nhện bò ra, tám cái chân của chúng thoăn thoắn leo lên các chạc cây, bắt đầu công việc.
Tiểu Yêu quan sát một hồi, nhận xét:
Tơ sợi được dệt bởi người cá và tơ sợi của loài nhện này đều nức tiếng Đại hoang, mỏng như cánh gián, mềm như mây trôi, nước không thấm, lửa không cháy, gươm đao chặt không đứt, thuộc hàng quý hiếm.
Cảnh bay đến bên Tiểu Yêu, ôm nàng vào lòng, che chắn cho nàng khỏi những trận gió núi dữ dội:
Tiểu Yêu tròn mắt nhìn đàn nhện vừa nhả tơ vừa chăm chỉ đan lưới. Chúng giống những thợ dệt khéo léo nhất thế gian, chưa hết một tuần trà, đã đan xong tấm lưới tinh xảo.
Tám con nhện bò về phía Cảnh, chàng thưởng cho chúng một giọt Ngọc tủy, chúng tỏ ra hài lòng và thủng thẳng bò vào ống ngọc.
Tiểu Yêu ngắm nhìn tấm lưới, không biết Cảnh nuôi chúng bằng thứ gì mà chúng có thể nhả ra những sợi tơ màu xanh nước biển đẹp như vậy! Tấm lưới màu xanh nước biển có hình bát quái, tám góc gắn chặt vào các chạc cây, phần giữa lơ lửng trong không trung. Các sợi tơ được dệt theo một trình tự nhất định, nên tấm lưới tuy dày đặc các mối tơ, nhưng không rối, không loạn, tạo thành hình vòng tròn cân đối, đầy đặn, bồng bềnh như sóng nước. Dưới ánh sao trời bàng bạc, tấm lưới tựa hồ một mảnh lụa màu lam tinh xảo, tuyệt mỹ.
Tiểu Yêu nghĩ mãi không ra dụng ý của Cảnh, đành hỏi:
Cảnh cười, xiết Tiểu Yêu vào lòng và nhảy xuống. Chưa kịp thốt lên kinh ngạc, Tiểu Yêu đã thấy mình rơi xuống tấm lưới, cảm giác vô cùng dễ chịu, hệt như nằm trên một chiếc giường êm ái vậy.
Tiểu Yêu tò mò xoa vuốt, tấm lưới chẳng những mềm mại mà còn rất ấm nữa. Nàng bật cười giòn giã:
Mắt Cảnh thoáng nét u buồn và hoài niệm, chàng mỉm cười, nói:
Tiểu Yêu ngả mình trên tấm lưới, ngắm nhìn bầu trời xanh thẳm, bao la, và những vì tinh tú lấp lánh.
Từ dạo lưu lạc nhân gian, Tiểu Yêu đã phải ngủ ngoài trời vô số lần. Với nàng, ngủ ngoài trời không phải thú vui tao nhã gì, chẳng qua là vì không có nhà để ở. Trong đêm, nàng sẽ phải đối mặt với rất nhiều nguy hiểm rình rập, nên lúc nào cũng phải tỉnh táo và cảnh giác. Nhưng đêm nay là một trải nghiệm mới mẻ. Tiểu Yêu khẽ bảo:
Cảnh giật mình ho vài tiếng, lắc đầu:
Tiểu Yêu trở mình, bốn mắt giao nhau, nàng mỉm cười, nói:
Nụ cười dần tắt trên môi nàng:
Cảnh dịu dàng thơm nàng và nói:
Tiểu Yêu mỉm cười:
Gió núi đung đưa chiếc giường tơ nhện của họ. Họ nằm bên nhau, trong vòng tay nhau, ngắm nhìn bầu trời ngàn sao lấp lánh, những vì sao như đang mỉm cười với họ.
Hơn một tháng sau, vào khoảng cuối tháng Sáu, thuyền của Cảnh và Tiểu Yêu ra đến biển Quy Khư.
Nếu đi tiếp về hướng Đông Nam, họ sẽ vào sâu khu vực cảnh giới của Ngũ Thần Sơn. Trong suốt hành trình, Tiêu Tiêu lúc nào cũng cung kính nghe theo mệnh lệnh của Cảnh. Nhưng lúc này, nàng không thể không lên tiếng:
Cảnh nói:
Cảnh ra lệnh đổi hướng, cho thuyền hướng về phía Bắc, ra biển Đông. Còn chàng, Tĩnh Dạ và Hồ Á lên thuyền nhỏ đi Ngũ Thần Sơn. Chờ khi giải quyết xong công việc kinh doanh, chàng sẽ ra Đông Hải tìm Tiểu Yêu.
Tiểu Yêu đứng ở đuôi thuyền, tiễn Cảnh. Chiếc thuyền nhỏ xuôi theo hướng ngược lại, chẳng mấy chốc, nàng và Cảnh đã không còn thấy rõ nhau nữa.
Thuyền nhỏ vừa vào đến khu vực cảnh giới của Ngũ Thần Sơn đã thấy Nhục Thu giong thuyền ra nghênh đón. Cảnh cùng Tĩnh Dạ và Hồ Á lên thuyền của Nhục Thu.
Lúc sắp đến Ngũ Thần Sơn, Cảnh nói với Nhục Thu:
Nhục Thu thoáng sững sờ. Người đứng sau Cảnh nãy giờ mà ai nấy đều tưởng là Tĩnh Dạ, lúc này mới bước lên vài bước, tháo mặt nạ dệt từ tơ nhện, mỉm cười chào:
Nhục Thu suy nghĩ một lát, bảo:
Hắn lập tức kêu gọi tọa kỵ, chẳng kịp chào hỏi, thoắt cái đã biến mất giữa tầng mây.
Tiểu Yêu đứng ở mui thuyền, vẻ mặt bình thản, nhưng trong lòng thấp thỏm không yên. Cảnh vỗ nhẹ vào tay nàng, động viên nàng đừng suy nghĩ nhiều.
Chừng nửa canh giờ sau, thuyền vừa tới chân núi thì Nhục Thu quay lại.
Tiểu Yêu vẫn tỏ ra bình tĩnh, kỳ thực nàng rất mực hồi hộp. Nhục Thu mỉm cười, nói với Cảnh và Tiểu Yêu:
Tiểu Yêu thở phào, nhưng một nỗi lo sợ khác bỗng nhiên ùa tới, khiến nàng chần chừ không chịu lên xe mây. Cảnh lên trước, chìa tay ra cho nàng:
Tiểu Yêu trấn tĩnh lại, nắm tay Cảnh, nhảy lên xe mây. Khoảng một tuần trà sau, xe mây dừng lại trước điện Triêu Huy của cung Thừa n.
Nhục Thu nói:
Cảnh nói với Tiểu Yêu:
Tiểu Yêu gật đầu.
Cảnh bước vào, thấy Tuấn Đế phóng mắt nhìn ra phía sau, chàng liền vái lạy và thưa:
Tuấn Đề điềm nhiên nhìn Cảnh.
Cảnh nói:
Tuấn Đế điềm nhiên nói:
Cảnh đoán “A Hành” là tên gọi thân mật của Vương cơ Hiên Viên, chàng nói tiếp:
Cảnh quỳ xuống, vái lạy Tuấn Đế:
Cảnh là tộc trưởng tộc Đồ Sơn, theo lễ nghi, chàng chỉ cần cúi chào trước Hoàng Đế và Tuấn Đế, mà không cần quỳ lạy, nhưng hôm nay, chàng đã kính cẩn quỳ lạy ngài.
Tuấn Đế chẳng mảy may xúc động, ngài giơ tay lên, cho phép Cảnh ngồi.
Cảnh ngồi xuống và thưa:
Ngón tay Tuấn Đế bất giác chạm vào chiếc nhẫn Bạch cốt trên ngót út của bàn tay trái, mắt ngài hướng về nơi xa xăm nào đó, vẻ mặt không lộ nét buồn vui, nhưng ánh mắt mơ màng của ngài toát lên nỗi bi thương, sầu muộn. Một lúc sau, ngài mới khẽ lẩm nhẩm:
A Hành, nàng muốn Tiểu Yêu biết mọi chuyện? Không phải nàng vẫn mong Tiểu Yêu được sống những ngày vô lo vô nghĩ hay sao?
Từ lúc chào đời, số phận buộc Tiểu Yêu phải sống một cuộc đời khác với A Niệm. Nay nàng đã trưởng thành, dù sự thật phũ phàng, tàn nhẫn nhường nào cũng cúi xin Bệ hạ cho nàng được biết. Chỉ sự thật mới giúp nàng giải tỏa mọi phiền muộn và được thanh thản.
Tuấn Đế hỏi:
Vì đẻ khó, nên sau khi sinh Tiểu Yêu, A Hành hôn mê hơn một năm. Ngài đã cho Tiểu Yêu ăn, dỗ Tiểu Yêu ngủ. A Hành, vì sao ta luôn cảm thấy Tiểu Yêu của chúng ta vẫn còn bé bỏng, cần được che chở, bảo vệ? Nhưng, con bé đã thực sự trưởng thành!
Cảnh định lên tiếng, chợt nghe Tuấn Đế lẩm nhẩm:
Lúc này Cảnh mới hay, thì ra khi nãy không phải Tuấn Đế hỏi chàng.Tuấn Đế nói với Cảnh:
Cảnh hỏi:
Tuấn Đế xua tay:
Nói xong, ngài đứng lên, bóng ngài lướt đi như mây trôi, lát sau đã hoàn toàn mất dạng.
Cảnh rất bất ngờ khi Tuấn Đế từ chối gặp Tiểu Yêu, chàng sững sờ một lúc, mới buồn bã bước ra.
Trông thấy chàng, Tiểu Yêu lập tức chạy đến:
Cảnh áy náy nói:
Tiểu Yêu thất vọng, buồn bã vô chừng, nhưng nàng vẫn tỏ ra không hề có chuyện gì:
Vừa xuống xe mây, Tiểu Yêu liền trông thấy một chiếc thuyền lớn khắc huy hiệu của Thanh Long Bộ đậu trên biển. Nhục Thu hóa phép ngưng tụ nước biển thành cây cầu, mời Cảnh và Tiểu Yêu lên thuyền.
Tiểu Yêu đi như chạy, nàng không muốn nán lại nơi này thêm nữa. Cảnh vừa đi vừa ngẫm ngợi, chàng không hiểu mình đã nói sai điều gì, khiến Tuấn Đế thay đổi quyết định, mà đuổi chàng và Tiểu Yêu xuống núi.
Chiếc thuyền nhanh chóng đưa Cảnh và Tiểu Yêu xuôi về hướng Tây Bắc.
Tiểu Yêu nói với Nhục Thu:
Nhục Thu đáp ngắn gọn nhưng cương quyết:
Tiểu Yêu tức giận, gọi:
Cảnh như vừa nghĩ ra điều gì, chàng kéo Tiểu Yêu ra một chỗ, hỏi khẽ:
Tiểu Yêu lắc đầu.
Cảnh nói:
Tiểu Yêu buồn bã, nói:
Cảnh trầm ngâm suy nghĩ một lát, rồi chàng trỏ đàn hải âu đang chao liệng trên mặt biển:
Tiểu Yêu nhìn theo hướng tay Cảnh, nàng thấy biển trời mênh mông vô tận, vạn vật tự do bay lượn, mây khói mịt mù, Ngũ Thần Sơn lúc ẩn lúc hiện. Tiểu Yêu chăm chú ngắm nhìn khung cảnh tuyệt đẹp ấy, biết đâu đây sẽ là lần cuối cùng nàng được thấy nó.
Bốn ngày sau, họ vào địa phận Xích Thủy. Tiểu Yêu nghĩ Nhục Thu sẽ cho thuyền cập bến, nào ngờ hắn vẫn tiếp tục cho thuyền ngược dòng Xích Thủy, không hề có ý định dừng lại.
Tiểu Yêu lấy làm băn khoăn, nhưng thấy Cảnh vẫn điềm nhiên như không, nên nàng cũng chẳng sốt ruột. Nàng cũng muốn xem rốt cuộc Nhục Thu định giở trò gì.
Thuyền thẳng tiến về phía thành Xích Thủy. Năm xưa, Nhục Thu từng đưa dâu qua đây. Tiểu Yêu tựa người vào lan can, nổi hứng trêu chọc:
Nhục Thu đang trò chuyện với Cảnh, hắn vờ không nghe Tiểu Yêu. Cảnh mỉm cười, liếc nhìn nàng. Ánh mắt chàng khiến Tiểu Yêu trở nên bối rối, nàng quay sang hướng khác, vờ ngắm cảnh hai bên bờ.
Nguồn nước dồi dào, đất đai phì nhiêu, suốt hành trình chỉ thấy đôi bờ cây xanh lá biếc, bỗng đâu xuất hiện một vùng hoang mạc khô cằn, không một bóng cây ngọn cỏ.
Tiểu Yêu còn nhớ, lần đầu nàng và Chuyên Húc đến Xích Thủy cũng từng ngang qua hoang mạc này. Tiểu Yêu hỏi Cảnh và Nhục Thu:
Cảnh đáp:
Tiểu Yêu bỗng nhiên tròn xoe mắt, nhìn trân trân về phía trước, Cảnh quay lại, và thấy Tuấn Đế. Ngài vận bộ y phục màu trắng dân dã, ngước nhìn hoang mạc mênh mông, không còn thấy vẻ uy nghiêm của bậc đế vương toát lên từ diện mạo của ngài, mà chỉ thấy vẻ tự do tự tại của một hiệp khách lãng du khắp hải hồ.
Cảnh cúi chào:
Tuấn Đế bước về phía Tiểu Yêu, nắm tay nàng, bay lên bờ. Cảnh vội vã theo sau.
Khi ba người lên đến bờ, Cảnh quay lại nhìn, thấy chiếc thuyền vẫn giữ nguyên tốc độ, như thể không hề có chuyện gì vừa xảy ra. Thuyền vẫn tiếp tục hướng về phía trước, thuyền viên bận rộn trên khoang, chuẩn bị xuống hàng.
Tiểu Yêu muốn rút tay về, nhưng Tuấn Đế không chịu buông. Nàng giận dỗi:
Tuấn Đế dắt Tiểu Yêu đi sâu vào hoang mạc. Tiểu Yêu không vùng thoát nổi, đành ngoan ngoãn theo ngài.
Lúc đầu họ còn thấy thấp thoáng mấy bụi cỏ gai, vốn là loài thực vật thường gặp trên các sa mạc, nhưng sau đó, họ không thấy dấu vết của bất cứ loài cây cỏ nào.
Tiểu Yêu ném ra một mảnh khăn lụa, mảnh khăn lập tức cháy xém, chưa kịp chạm đất đã tan thành tro bụi. Tiểu Yêu há hốc miệng kinh ngạc, lúc này nàng mới hiểu vì sao Tuấn Đế giữ chặt tay nàng không chịu buông. Nếu không nhờ ngài truyền linh lực cho nàng, chắc nàng đã bị thiêu cháy.
Tiểu Yêu băn khoăn hỏi:
Nói xong nàng mới nhận ra mình lỡ lời.
Nhưng đã không kịp đổi cách xưng hô nữa, nàng đành câm lặng.
Tuấn Đế dịu dàng nhìn nàng, ngài không trả lời câu hỏi của nàng mà nói sang chuyện khác:
Tiểu Yêu dỏng tai lắng nghe.
Theo lời kể của Tuấn Đế, chuyện cũ bỗng trải rộng trước mắt nàng như những bức họa quyển sống động. Bao buồn vui, hợp tan khi xưa bỗng như sống lại: Bác cả Thanh Dương, bác hai Vân Trạch, bác tư Xương Ý, bà ngoại Luy Tổ, và cả người mẹ tinh nghịch, ham chơi của nàng...
Không biết trải qua bao lâu, Tiểu Yêu chợt ngửi thấy mùi cháy khét, nàng nghiêng đầu và thấy bộ y phục màu trắng của Tuấn Đế đã biến thành màu vàng, môi ngài nứt nẻ như ruộng cạn. Nàng sợ hãi gọi:
Nàng quay đầu tìm Cảnh, thấy chàng mặt mày đỏ rực, bước đi loạng choạng, mỗi bước đều như giẫm phải sắt nung, khói nhạt bốc lên từ lòng bàn chân.
Tiểu Yêu sợ hãi, kêu lên:
Tuấn Đế quay đầu nhìn Cảnh, hỏi:
Cảnh gượng cười, không nói năng, chỉ gật đầu, tỏ ý chàng có thể đi tiếp. Thức thần cáo nhỏ bay ra, chau mày bất mãn, gục trên vai Cảnh, lúc này sắc mặt Cảnh mới khá lên đôi chút.
Tuấn Đế tiếp tục hành trình, Tiểu Yêu hoảng sợ:
Tuấn Đế vẫn nắm chặt tay Tiểu Yêu, vừa bình thản kể lại câu chuyện cuộc đời của ngài và A Hành, vừa dắt Tiểu Yêu bay về phía trước.
Phía trước là sa mạc vô tận, phía sau cũng là sa mạc vô tận. Sức nóng thiêu đốt của sa mạc này khiến Tiểu Yêu có cảm giác như trời xanh cũng biến sắc, ánh nắng rực đỏ, sa mạc rực đỏ, vạn vật trên thế giới dường như đều bị thiêu rụi, sự sống không còn tồn tại.
Nhờ linh lực của Tuấn Đế, Tiểu Yêu không cảm nhận thấy sức nóng ngoài kia. Nhưng qua dáng vẻ thảm hại của cha nàng và của Cảnh, nàng có thể khẳng định, sức nóng ngoài kia có thể thiêu rụi mọi thứ, đốt cháy mọi sinh linh.
Thức thần trên vai Cảnh cứ nhỏ dần nhỏ dần và rồi biến mất hoàn toàn. Cảnh bất ngờ phun ra một bụm máu, lửa thiêu đốt bàn chân chàng. Tuấn Đế nắm lấy tay Cảnh, ngọn lửa lập tức bị dập tắt.
Tay trái dắt Cảnh, tay phải dắt Tiểu Yêu, Tuấn Đế vẫn giữ nguyên tốc độ, bay về phía trước. Tiểu Yêu thấy rõ từng nếp áo cha cháy thành tro. Làn da trên cánh tay ngày nứt nẻ như bờ ruộng đại hạn, máu rỉ qua từng khe nứt, nhuộm đỏ y phục của ngài.
Tiểu Yêu gào khóc:
Tuấn Đế bước chậm lại, nhưng ngay sau đó, ngài tăng tốc bay về phía trước.
Tiểu Yêu thấy hai cánh tay ngài khô héo tựa dây leo lụi giàn, chỉ còn xương đen, không còn da thịt. Nàng kêu khóc van xin:
Tuấn Đế như không nghe thấy lời van xin của Tiểu Yêu. Nàng đổi giọng vừa khóc vừa rủa:
Tuấn Đế chao đảo, linh lực của ngài không đủ để truyền cho cả hai người, nhưng ngài vẫn kiên trì nắm chặt tay Cảnh và Tiểu Yêu và không ngừng tiến về phía trước.
Biểu cảm trên gương mặt ngài hoàn toàn khác trước. Ngài không còn là Tuấn Đế uy nghi lẫm liệt, gương mặt bình thản như nước, cúi trông muôn dân nữa. Lúc này, ngài hoang mang, lo sợ, cuống quít hệt như một người vừa đánh mất thứ quý giá nhất và đang nóng lòng muốn tìm lại.
Đường về cũng chẳng thấy đâu, Tiểu Yêu đã thôi ý định kêu gào, ngăn cản, nàng lảo đảo bước theo Tuấn Đế, nàng thực sự không hiểu cha đang tìm kiếm thứ gì.
Không biết họ đã đi bao xa, Tuấn Đế khuỵu xuống, Cảnh và Tiểu Yêu cùng ngã theo. May sao, lúc này linh lực của Cảnh đã khôi phục được vài phần, chàng vội nắm lấy tay Tiểu Yêu, nhờ vậy nàng không bị thương. Nhưng một bên chân của Tuấn Đế đã bị thiêu cháy, dường như chỉ còn xương khô.
Tiểu Yêu lôi lọ Ngọc tủy giấu trong người, đổ xuống chân Tuấn Đế, nhưng nước Ngọc tủy chưa kịp chảy xuống chân ngài, đã bốc hơi và tan đi mất.
Tiểu Yêu phẫn uất gào lên:
Tuấn Đế muốn đứng lên nhưng ngài không gượng nổi. Ánh mắt ngài ngập nỗi bi thương, ngài ngước nhìn bầu trời rực đỏ, nghẹn ngào:
Đột nhiên, Cảnh trỏ tay sang bên trái, kinh ngạc gọi:
Theo hướng tay Cảnh, giữa vùng trời rực đỏ và mặt đất rực vàng xuất hiện một vạt rừng hoa đào, thấp thoáng như mây khói, xán lạn tựa ráng chiều, chói đỏ như son, rực rỡ tươi đẹp, khiến lòng người ngẩn ngơ.
Tiểu Yêu dụi mắt nhìn cho rõ, nàng không tin nổi, giữa vùng đất chết chóc này vẫn tồn tại một vạt rừng hoa đào ư?
Ánh mắt Tuấn Đế thấp thoáng tia sáng rực rỡ. Ngài vịn vào cánh tay Cảnh, gượng đứng lên. Cả ba người cùng lảo đảo bước về phía rừng đào tươi thắm ấy.
Họ vừa chạm gót rừng đào, cả Tuấn Đế và Cảnh đều ngã gục, hơi thở khó khăn. Chỉ có Tiểu Yêu là bình yên vô sự, duy chỉ có mái tóc và váy áo của nàng bị cháy khô.
Cảnh vẫn cảm thấy dường như có ngọn lửa rực cháy quanh mình. Nhưng nhờ rừng đào này, chàng có thể kêu gọi thủy linh, bày trận pháp đối chọi với sức nóng thiêu đốt của sa mạc, không như lúc trước, chỉ có thể chống chịu bằng linh lực của mình.
Cảnh không buồn ngơi nghỉ, vội vã dựng một trận pháp đơn giản, chàng định kéo Tiểu Yêu vào trận pháp đó để tránh sức nóng thiêu đốt của sa mạc, chợt thấy nàng thản nhiên dạo bước trong rừng đào, tựa như thiếu nữ đang thong thả du xuân.
Cảnh tròn mắt, Tiểu Yêu đâu phải một cao thủ linh lực cao cường!
Cảnh hỏi nàng:
Tiểu Yêu, nàng không thấy nóng sao?
Nóng ư? Không hề. Từ lúc vào rừng đào này, em thấy rất sảng khoái dễ chịu, giống như mùa xuân trên Thần Nông Sơn vậy.
Hòa điệu với giọng nói của Tiểu Yêu, những bông hoa đào ào ạt trút xuống, cánh hoa cuộn bay rợp trời, bồng bềnh như hoa tuyết, vây quanh Tiểu Yêu. Tiểu Yêu cảm động chìa tay đón lấy những cánh hoa.
Lẽ nào chỉ mình chàng cảm thấy sự khác lạ? Cảnh đưa mắt nhìn Tuấn Đế, thấy ngài đang ngồi giữa một trận đồ bát quái ngưng tụ bởi thủy linh. Rõ ràng ngài cũng đang tìm cách tránh né sức nóng như thiêu như đốt quanh mình. Nhưng ngài không tỏ ra ngạc nhiên trước sự khác lạ của Tiểu Yêu. Ngài chỉ lặng lẽ nhìn nàng, ánh mắt điềm nhiên, không biểu lộ cảm xúc vui hay buồn.
Tiểu Yêu hỏi:
Cảnh cười buồn, trị thương? Có thể giữ được mạng sống đã tốt lắm rồi!
Tuấn Đế mỉm cười, nói:
Tiểu Yêu, không phải ta và Cảnh đang nghỉ ngơi dưỡng thương, nơi này không mát mẻ, dễ chịu so với hoang mạc kia bao nhiêu.
Nhưng con không cảm thấy gì cả.
Tiểu Yêu băn khoăn:
Tuấn Đế lặng nhìn rừng đào, ánh mắt ngài ngập nỗi bi ai.
Cảnh vốn tinh thông trận pháp, sau khi quan sát rừng đào, chàng không khỏi bội phần khâm phục người dựng lên trận pháp hoa đào này. Rừng hoa đào kỳ lạ tồn tại giữa một miền đất chết, tự nó đã tạo dựng một thế giới riêng biệt, mang lại sự sống nơi cõi chết, phong tỏa yêu lực đáng sợ của yêu quái. Nhưng điều khiến chàng kinh ngạc là trận pháp này dường như được dựng lên chính để bảo vệ cho yêu quái đó. Nếu tiếp tục vào sâu bên trong, rừng đào này chắc chắn sẽ ngăn cản chàng hội tụ thủy linh, thậm chí chàng sẽ phải đối mặt với cái chết.
Cảnh kiểm chứng phán đoán của mình bằng cách thử tiến sâu vào rừng đào. Quả nhiên, chàng thấy thủy linh nhanh chóng tan biến, như một lời cảnh cáo nghiêm khắc. Cảnh bước thêm vài bước, rừng đào nổi cơn thịnh nộ, ngàn bông hoa đào lập tức biến thành ngàn mũi dao nhọn, bay về phía chàng. Tiểu Yêu thất kinh, lao đến, ôm chầm lấy Cảnh, cả hai cùng ngã xuống đất, Tiểu Yêu đè lên người Cảnh.
Một trời mũi dao nhọn hoắt đỏ rực trút xuống như mưa, nhưng vừa chạm tới Tiểu Yêu, đã lập tức biến thành những cánh hoa đào mềm mại, lả lướt, rớt rơi khắp người Tiểu Yêu và Cảnh, dịu dàng nhưng mưa bụi vùng Giang Nam.
Cảnh đột nhiên nhận ra, rừng đào bắt đầu trút xuống những trận mưa hoa ngay khi họ vừa đặt chân tới đây. Có lẽ không phải bởi họ làm kinh động đến trận pháp hoa đào, mà những trận mưa hoa ấy trút xuống là vì Tiểu Yêu.
Cảnh đã hiểu vì sao Tiểu Yêu không hề cảm thấy nóng bức. Chàng nói với Tuấn Đế:
Hệt như khi nãy Tuấn Đế dùng linh lực của mình che chở Tiểu Yêu khỏi sức nóng thiêu đốt của sa mạc.
Tiểu Yêu lấy làm khó hiểu:
Tuấn Đế đáp:
Tiểu Yêu nhìn Tuấn Đế đăm đăm.
Ngài lặp lại lần nữa:
Thế giới bỗng chốc như ngưng đọng!
Trái tim của Tiểu Yêu đột ngột chùng xuống, chìm xuống tận cùng của thế giới, nàng thấy mình không thở nổi.
Nàng nghe rõ tiếng những cánh hoa rớt rơi trên vai mình, thấy giọng nói của mình như vẳng đến từ một nơi xa xăm nào đó:
Cha nói sao?
Mẹ con còn sống.
Tiểu Yêu nghe tiếng trái tim đập rộn như trống giục, nàng đang vui mừng ư? Nhưng vì sao nàng cảm thấy muôn phần bi ai và phẫn nộ? Nàng cảm thấy mình rất bình tĩnh, bình tĩnh đến mức, nàng đang tự hỏi vì sao lại cảm thấy bi ai? Vì sao nàng không vui mừng? Nhưng nàng cũng nghe thấy tiếng nàng gào thét như điên dại:
Tuấn Đế buồn bã nhìn nàng.
Tiểu Yêu tin lời cha, rằng mẹ nàng còn sống. Nhưng tại khoảnh khắc này, nàng ước sao bà ấy đã chết! Vì như thế, nàng sẽ có cớ để tha thứ cho bà.
Trải qua bao khổ nạn, Tiểu Yêu vốn tin rằng nàng đã có đủ sự kiên cường và một trái tim lạnh lùng để đối mặt với mọi biến cố của đời sống. Nhưng giờ đây, nàng nhận ra rằng, có những nỗi đau, dù đã cố cất giấu dưới tầng tầng lớp lớp những vỏ bọc cứng rắn nhất, kiên cố nhất, ta vẫn không thể trốn tránh nổi. Nàng cứ ngỡ mình sẽ không bao giờ rơi lệ vì những chuyện buồn quá khứ, vì nước mắt của nàng đã cạn kiệt sau bao đêm trường cô độc, bơ vơ. Kỳ thực, khi từng lớp vỏ bọc bị gỡ xuống, nàng vẫn khóc, vẫn đau khổ như xưa.
Tiểu Yêu lao như bay ra khỏi rừng đào. Ý niệm duy nhất xuất hiện trong đầu nàng lúc này là: Rời khỏi đây, không bao giờ quay lại!
Cảnh muốn giữ nàng lại, nhưng chàng không thể đi lại thoải mái trong rừng đào như Tiểu Yêu, mỗi bước di chuyển đối với chàng đều vô cùng khó khăn, bởi vậy chàng không làm cách nào giữ nàng lại.
Tuấn Đế chắn trước mặt nàng, nạt nộ.
Tiểu Yêu đẩy ngài ra, tiếp tục chạy trốn khỏi rừng đào:
Bốp!
Tiểu Yêu nhận lấy một cái tát như trời giáng.
Má nàng đau rát như bốc hỏa, nàng bàng hoàng nhìn Tuấn Đế. Từ nhỏ đến lớn, cha chưa bao giờ nặng lời với nàng. Lúc băng qua sa mạc, cha dùng linh lực bảo vệ nàng, mặc cho cơ thể cha bị thiêu đốt và trọng thương. Vậy mà, vì người đàn bà từng phụ bạc cha, cha sẵn sàng tát nàng.
Tiểu Yêu trừng mắt nhìn Tuấn Đế:
Mấy trăm năm trước bà ấy đã bỏ cha! Bà ấy không cần cha!
Mẹ con không cần ta, nhưng cô ấy chưa khi nào muốn ruồng bỏ con! Nếu không vì con, cô ấy hà tất phải gắng gượng với kiếp sống không ra người, cũng chẳng ra ma thế này? Con hãy nhìn xem, bầu trời này, mặt đất này, có giống nơi loài người sinh sống hay không?
Tiểu Yêu sững sờ nhìn Tuấn Đế. Một bên chân của ngài khô đét như que củi, hai cánh tay ngài héo úa tựa dây leo lụi giàn. Người có linh lực cao cường như Tuấn Đế cũng không chịu đựng nổi nơi này dù chỉ một ngày. Vậy mà mẹ nàng đã phải náu thân ở đây suốt mấy trăm năm.
Cơn phẫn nộ, nỗi bất bình trong lòng Tiểu Yêu bỗng chốc tan đi như mây khói. Thay vào đó là nỗi bi ai cuồn cuộn trào dâng, bừng cháy như ngọn lửa dữ, thiêu đốt lục phủ ngũ tạng nàng. Nàng quay người, lao về phía rừng đào, vừa chạy vừa gào gọi:
Hoa đào bay rợp trời, tựa màn mưa bụi tháng tư liên miên bất tận trên đất Giang Nam.
Tiểu Yêu tìm gọi mẹ giữa rừng đào:
Một bóng áo xanh xuất hiện giữa cơn mưa hoa rực đỏ. Tiểu Yêu dừng bước, ngẩn ngơ ngắm nhìn sắc xanh nổi bật giữa một trời chói đỏ ấy.
Giữa trời mưa hoa, bóng dáng ai đó mơ hồ không rõ, chỉ thấy bước chân của người ấy đầy vẻ ngập ngừng, thận trọng.
Người đó bước về phía Tiểu Yêu, rồi dừng lại khi còn cách nàng một đoạn khá xa. Hoa đào ào ạt trút xuống, gương mặt người đó khuất sau làn mưa hoa, Tiểu Yêu chẳng thể thấy rõ.
Tiểu Yêu há hốc miệng, nhưng cổ họng nghẹn đắng, nàng không cất nổi tiếng gọi. Tiểu Yêu muốn dấn bước, nhưng làn mưa hoa dịu dàng mà kiên quyết đã đẩy lui nàng lại.
Tuấn Đế đứng sau Tiểu Yêu, cất tiếng gọi:
Rất lâu sau, tiếng người đó cất lên khản đặc, như thể cổ họng đã bị thiêu đốt.
Thiếu Hạo ư?
Ta đây!
Giọng Tuấn Đế run rẩy.
Tuấn Đế muốn cười mà không sao cười nổi:
Nàng... vẫn ổn chứ?
Thiếp ổn.
Họ tỏ ra bình thản, điềm nhiên như thể vừa gặp lại nhau giữa mùa mưa bụi tháng tư trên đất Giang Nam vậy. Năm tháng qua đi, gặp lại người xưa bạn cũ, họ vẫn hân hoan nói với nhau rằng mình rất ổn.
Tuấn Đế nói:
Bóng áo xanh lặng lẽ đứng đó, không ai trông rõ nét mặt nàng, chỉ thấy những cánh hoa đào vấn vít quanh nàng như mây sớm tan đi, mây chiều tụ lại, biến ảo khôn cùng.
Tiểu Yêu gạt những cánh hoa ngày một trút xuống dày đặc, nỗ lực bước tới. Bóng áo xanh chừng như hoảng hốt, lập tức lùi lại phía sau:
Tiểu Yêu gào lên:
Vì sao không cho con đến với mẹ? Con muốn đến, con muốn đến! Vì sao mẹ phải trốn trong đó? Mẹ cho những cánh đào này tản ra đi!
Tiểu Yêu, ngoan nào!
Hồi bé nàng vẫn thường nghe mẹ nhắc nhở: “Tiểu Yêu, ngoan nào” mỗi khi nàng nghịch ngợm, hay khi nàng đòi đồ ăn vặt mà không chịu ăn cơm, hoặc khi nàng không chịu gọi Chuyên Húc là “anh”… Thuở ấy giọng mẹ mới êm dịu, ngọt ngào làm sao, đâu có khản đặc như bây giờ.
Nước mắt lã chã rơi, Tiểu Yêu không ương bướng như hồi nhỏ nữa, nàng nghe lời mẹ, dừng lại. Nhưng khẩu khí của nàng vẫn ngang ngạnh hệt như hồi bé:
Trong cơ thể ta có lửa Mặt trời, ngọn lửa này có thể biến vùng đất phì nhiêu, màu mỡ thành sa mạc ngàn dặm. Nếu lại gần, con sẽ bị thương đó.
Tiểu Yêu bàng hoàng, thảng thốt:
[1] Hạn Bạt: quái vật gây ra hạn hán trong thần thoại của Trung Quốc.
Tiểu Yêu hỏi:
Mẹ sống ở đây từ bấy đến nay?
Ừ.
Không phải mẹ không muốn đến đón con mà vì mẹ không thể, đúng không?
Sự thật đã bày ra trước mắt, nhưng Tiểu Yêu vẫn muốn được nghe câu trả lời của mẹ, nàng đã chờ đợi quá lâu.
Bóng áo xanh như thấu hiểu nỗi lòng của Tiểu Yêu, nàng bất giác chìa tay ra, bước thêm vài bước, nhưng lại lập tức rụt tay về, đau khổ lùi lại:
Sau hơn bốn trăm năm, Tiểu Yêu đã chờ được một lời giải thích mà nàng vốn nghĩ sẽ không bao giờ có được.
Mọi khúc mắc trong lòng được giải tỏa, nước mắt đầm đìa, Tiểu Yêu quỳ sụp xuống, gọi:
Bóng áo xanh run lên bần bật, hoa đào cuồng loạn bay quanh nàng, như vỗ về, an ủi nàng, lại như san sẻ với nỗi bi thương của nàng.
Tiểu Yêu vừa khóc vừa hỏi:
Mẹ ơi, một mình mẹ sống ở đây suốt bốn trăm năm qua ư?
Không phải đâu, cha con luôn ở bên mẹ.
Tiểu Yêu bất giác quay lại nhìn Tuấn Đế, nhưng nàng lập tức hiểu ra, mẹ nàng không nhắc đến Tuấn Đế, mà là… Nàng vội hỏi:
A Hành thấu hiểu nỗi lòng con gái, nên nàng không giận Tiểu Yêu vì cách nàng gọi cha mình, nàng không trả lời câu hỏi của Tiểu Yêu, mà hỏi lại con gái:
Tiểu Yêu quay lại nhìn Cảnh, nàng vừa bối rối, lo lắng vừa xấu hổ, e thẹn, giống hệt thiếu nữ bị cha mẹ bắt gặp khi hò hẹn tình nhân.
Tuấn Đế lên tiếng:
Cảnh quỳ lạy A Hành:
A Hành giơ tay lên:
Tuấn Đế nói:
A Hành thấy Cảnh quỳ mãi không chịu đứng lên, liền hiểu ra mọi chuyện. Cảm xúc trào dâng phức tạp, nàng thinh lặng không nói.
Tiểu Yêu quỳ bên Cảnh, hồi hộp không yên, lát sau, chừng như không kìm nổi nữa, nàng gọi:
A Hành như vừa tỉnh cơn mơ, nàng hỏi:
Cậu ấy đối xử với con ra sao?
Tốt lắm, rất tốt ạ.
Người khác không tốt với con ư? Vì sao nhất định phải là cậu ấy?
Chàng là người duy nhất không bao giờ bỏ rơi con dù xảy ra bất cứ chuyện gì.
A Hành dường như bật cười, nàng gọi:
Cảnh!
Vâng.
Xin hãy chăm sóc Tiểu Yêu.
Như vậy nghĩa là Vương cơ đã chấp nhận Cảnh? Cảnh thoáng sững sờ, sau đó, chàng lạy A Hành liền ba lạy, hân hoan đáp:
A Hành hỏi:
Tiểu Yêu đáp:
A Hành trầm ngâm một lát, hỏi:
Ông ngoại con qua đời khi nào?
Ông còn sống.
Tiểu Yêu nhanh nhẹn kể cho mẹ nghe toàn bộ câu chuyện Hoàng Đế truyền ngôi cho Chuyên Húc. Nàng cũng không quên “báo cáo” với mẹ về tình hình hiện nay của hai người.
A Hành hỏi:
Những câu chuyện dài cuốn Tiểu Yêu theo, khiến nàng trở nên hoạt bát, vui vẻ hơn nhiều, sở thích chọc ngoáy, cạnh khóe của nàng được dịp trỗi dậy. Nàng cười, bảo:
Tiểu Yêu hào hứng kể chuyện, đổi từ tư thế quỳ sang tư thế ngồi khoanh tròn trên đất. Nàng xòe bàn tay ra, đếm cho mẹ nghe:
A Hành khẽ thở dài, nàng vừa mừng vì Chuyên Húc bình an, yên ổn, lại vừa buồn vì nhớ cố nhân:
Tiểu Yêu quay sang nhìn Tuấn Đế. Chỉ có ngài mới hiểu và có thể đáp lại lời nhận xét của mẹ nàng. Tuấn Đế nói:
Khi nãy, trong câu chuyện của Tiểu Yêu, A Hành đã biết Chuyên Húc lớn lên ở Cao Tân, được Tuấn Đế nhận làm đệ tử. A Hành nói:
Giọng Tuấn Đế sầu muộn:
Tiểu Yêu nói:
Tiểu Yêu nóng lòng hỏi:
A Hành dịu dàng đáp:
Tiểu Yêu ngó nghiêng bốn phía:
Thấy Cảnh vẫn quỳ mọp dưới đất, A Hành gọi:
Cảnh cung kính đứng lên. A Hành nói với Tuấn Đế:
Thiếu Hạo, thiếp muốn nói chuyện riêng với Tiểu Yêu.
Được!
Tuấn Đế và Cảnh bước ra xa và ngồi dưới gốc đào. Cách biệt màn mưa hoa dày đặc, họ chỉ thấy bóng dáng thấp thoáng của Tiểu Yêu và A Hành, không nghe rõ họ nói gì.
A Hành dịu dàng bảo:
Tiểu Yêu gật đầu, song chợt nhớ ra, hai mẹ con cách nhau lớp lớp những cánh hoa, có thể mẹ nàng không trông thấy rõ, nàng vội nói:
Con muốn biết.
Ta là con gái út của Hoàng Đế Hiên Viên, trên ta còn có ba người anh. Người anh thứ hai tên Vân Trạch đã qua đời trước khi ta sinh ra. Anh cả Thanh Dương rất nghiêm khắc, trong khi mẹ và người anh thứ tư, tên Xương Ý lại rất mực nuông chiều ta. Thuở bé ta rất ham chơi, thường trốn xuống núi, nhưng mẹ không khi nào la mắng. Ta mượn họ của mẹ, tự đặt cho mình cái tên Tây Lăng Hành để ngao du khắp nơi. Một chiều mùa hạ, trên đường đến nước Bác Phụ, ta gặp chàng trai áo đỏ…
Qua lời kể của mẹ, Tiểu Yêu theo chân thiếu nữ A Hành, sống lại những buồn vui, hợp tan của nàng và Xi Vưu.
Người đàn ông tên Xi Vưu ấy dần sống lại trong ký ức tuổi thơ của Tiểu Yêu, khiến nàng không còn cảm giác lạ lẫm nữa.
Khi A Hành và Xi Vưu hẹn ước dưới gốc đào ở Cửu Lê, rằng hàng năm sẽ gặp nhau nơi đó, Tiểu Yêu mừng cho họ, lại cũng buồn cho họ.
Khi A Hành nghe tin Hoàng Đế muốn nàng đi lấy chồng, nàng đả thương Thanh Dương, trốn khỏi Hiên Viên Sơn, chờ đợi trắng đêm dưới gốc đào, nhưng vì Viêm Đế đột ngột băng hà, Xi Vưu lỡ hẹn, Tiểu Yêu không khỏi lo lắng cho họ.
Khi A Hành quyết định đi lấy chồng vì mẹ và anh trai, trên cây cầu nhân duyên do Huyền Điểu kết thành, Xi Vưu tới cướp dâu, nhưng vì linh lực không địch nổi Thiếu Hạo, đã bị đánh cho rơi xuống sông, Tiểu Yêu không khỏi đau lòng vì họ.
Khi A Hành và Thiếu Hạo giao hẹn trong đêm tân hôn, rằng hai người chỉ làm đồng minh, không làm vợ chồng, Tiểu Yêu vừa mừng cho A Hành và Xi Vưu, nhưng cũng buồn thay cho Thiếu Hạo. Khi ấy, hắn đâu biết, quyết định đó đã khiến hắn ân hận suốt đời.
…
Nước mắt Tiểu Yêu lặng lẽ tuôn rơi. Cái chết của bác cả, bác tư, niềm đau đớn của Xi Vưu, nỗi tuyệt vọng của mẹ nàng...
Tiểu Yêu đã khóc đỏ cả hai mắt, mà giọng A Hành vẫn bình thản:
Sau lưng chàng là Thần Nông, sau lưng ta là Hiên Viên. Chàng không thể phản bội Thần Nông, ta cũng không thể phản bội Hiên Viên. Nên chúng ta đành quyết tử trên chiến trường. Mẹ xin lỗi con, Tiểu Yêu, ngày mẹ đưa con lên Ngọc Sơn, mẹ đã quyết chí chọn cái chết.
Vậy... còn cha thì sao?
Lắng nghe câu chuyện vui buồn, hợp tan, sống chết ly tán của Xi Vưu và A Hành, từ tận đáy lòng mình, Tiểu Yêu đã chấp nhận nàng là con gái của Xi Vưu, nên nàng bật lên tiếng “cha” rất tự nhiên.
A Hành đáp:
Tiểu Yêu nôn nóng:
Mẹ nói bốn trăm năm qua mẹ không hề cô độc, cha luôn bên mẹ kia mà!
Vì muốn cứu Hiên Viên, ta đã đánh thức sức mạnh của lửa Mặt trời. Nguồn sức mạnh khủng khiếp ấy, dẫu là Thần tộc cũng khó lòng chống chịu nổi. Thần trí ta tiêu tan, ta biến thành ma điên, đi tới đâu, thiêu rụi mọi thứ tới đó. Cha con lấy tim mình thay thế cho tim ta đã bị lửa Mặt trời thiêu cháy. Ta và chàng từng hẹn ước “Dây còn cây chết, dây còn quấn; cây còn dây chết, chẳng rời nhau”[2], nên ta muốn được chết theo chàng. Nhưng chàng đòi ta phải sống. Chàng bảo rằng: “Ta sinh ra không cha không mẹ, nên không muốn con gái mình cũng không mẹ không cha. Từ ngày Tiểu Yêu chào đời, ta đã không tròn trách nhiệm của một người cha. Điều duy nhất ta có thể làm cho con bé, là để nàng ở lại. Tiểu Yêu sẽ biết cha mẹ nó là người thế nào và con bé sẽ không phải sống trong nỗi tủi nhục suốt đời.”
[2] Xem “Từng thề ước” – Đồng Hoa, Tố Hinh dịch.
A Hành vịn vào cây đào, đứng lên, nói với Tiểu Yêu:
Nước mắt như mưa, Tiểu Yêu nghẹn ngào, nức nở.
A Hành đặt một tay lên ngực, tay kia chỉ vào rừng đào:
Tiểu Yêu ngước nhìn hoa bay rợp trời, muôn vàn cánh hoa đào rực đỏ, tung bay vấn vít, quệt qua má nàng, rơi trên vai nàng, bao quanh thân nàng, dịu dàng, ấm áp, như vòng tay của cha.
Nước mắt trào ra như suối, Tiểu Yêu hướng mặt về phía rừng đào, gọi lớn:
Tiếng gọi xé lòng vang vọng trong rừng đào. Một trận cuồng phong nổi lên, rừng đào rung chuyển, hoa đào tung bay rợp trời.
Tiểu Yêu khóc, hỏi A Hành:
A Hành đặt tay lên ngực, cảm nhận nhịp đập thổn thức của trái tim nàng, nàng mỉm cười, nói:
Tiểu Yêu, mẹ đi đây!
Đi ư? Không, không, mẹ ơi, mẹ hãy theo con về. Con sẽ chữa khỏi bệnh cho mẹ…
A Hành bước về phía Tiểu Yêu, gương mặt nàng dần hiện ra rõ nét.
Giữa ánh sáng lung linh chói đỏ, Tiểu Yêu đã nhìn thấy mẹ nàng. Trên đầu mẹ không một sợi tóc, gương mặt héo hon, méo mó, xấu xí đến mức khiến người ta kinh sợ.
Rốt cuộc A Hành cũng được thấy rõ dung mạo của Tiểu Yêu. Nàng mỉm cười, nói:
Lòng như dao cắt, nhưng Tiểu Yêu hiểu rằng, đối với mẹ nàng lúc này, cái chết là sự giải thoát tốt nhất. Mẹ nàng đã khổ sở, mỏi mòn chờ đợi nàng giữa hoang mạc nghìn dặm này suốt bốn trăm năm.
A Hành bước tới trước mặt Tiểu Yêu, nàng chìa tay ra, kéo Tiểu Yêu vào lòng giữa một trời hoa bay.
Sau cái ôm này sẽ là sinh ly tử biệt, tiếng thở dài trầm buồn nhất, nhưng chứa đựng niềm vui lớn lao nhất thoát ra:
Để vợ và con gái có được cái ôm này, rừng đào đã bùng cháy và rồi tan biến.
Thân thể A Hành cũng dần tan biến.
Tiểu Yêu ra sức níu giữ:
Nhưng hệt như bụi cát cứ trôi tuột qua tay, nàng chẳng thể níu giữ được gì.
A Hành mỉm cười, thơm nhẹ vào vết bớt hình hoa đào trên trán Tiểu Yêu. Tiểu Yêu chỉ biết giương mắt nhìn mẹ nàng hóa thành một dải màu xanh lục, cuốn theo những cánh hoa đào, bay tít lên cao.
Giữa một trời lung linh, rực rỡ ấy, Tiểu Yêu dường như trông thấy cha nàng mặc áo đỏ, mẹ nàng mặc áo xanh, họ sóng vai bên nhau. Cha nàng vẫn khôi ngô, tráng kiện như trong trí nhớ của nàng, mẹ nàng vẫn thanh tú, xinh đẹp như khi dung mạo chưa bị hủy hoại. Cha mẹ đứng tựa vào nhau, mỉm cười nhìn nàng.
Tiểu Yêu chạy về phía họ, chìa tay cho họ, nàng muốn giữ họ lại:
Cha mẹ nàng xa dần, cánh hoa đào tan tác, ánh sáng lịm tắt, mọi thứ tan biến như mây khói, không còn rừng đào, không còn hoang mạc như thiêu như đốt, không còn cả trời sắc đỏ.
Tiểu Yêu ngẩn ngơ đứng đó, rất lâu sau nàng mới thẫn thờ quay lại:
Mái tóc của Tuấn Đế bỗng chốc bạc trắng, nước mắt ngài lăn dài nơi khóe mắt.
Tiểu Yêu muốn nhìn ngài thêm nữa, nhưng bỗng nghe tiếng sấm rền vang, mưa lớn xầm xập trút xuống, thoáng chốc, gương mặt họ ướt đầm.