Từ rằng:
Cỏ cây quê đầm đìa nước mắt
Não nùng thay một khúc Dương Quan
Chia tay luống những bàng hoàng
Thét roi đầu ngựa ruổi ngàn cây thưa
Tiếng sấm giật gió đưa lạ hoắc
Trước mặt sao gai góc đầu đường
Đêm nay, núi hẻm hang cùng
Mộng hồn lưởng vưởng tỉnh không mà về!
Theo điệu "Tích phân phi"
Người ta sinh ra trên đời, tất có lúc thịnh lúc suy, có khi tụ khi tan, gặp thời bình thì an cư lạc nghiệp, cùng nhau yên ổn. Chẳng may gặp phải lúc loạn li, nếu là kẻ sĩ có ít nhiều tài năng, trăn trở để xây dựng ình một công nghiệp, thì tránh sao khỏi lúc truân chuyên phiền não, may thì được sum họp một chỗ, chẳng may thì tan nát bốn phương, làm sao lại có thể yên phận "ôm cây đợi thỏ" 1 trong xó rừng, hoặc làm kẻ chết già trong góc cửa cho được.
° ° °
Lại nói trong số năm hào kiệt rời Tế Châu cuối cùng đó, thì Kim Quốc Tuấn, Đổng Bội Chi sợ ở công đường Lộ Châu có việc, nên cũng không thể ung dung thong thả, xin phép lên đường trước để về Lộ Châu. Đơn Hùng Tín, Vương Bá Đương, Lý Huyền Thúy, thân vô câu thúc, trong lòng cũng chẳng có sự gì phải lo lắng, gặp núi thời leo núi, gặp sông thời dong thuyền, nhởn nhơ dọc đường, mãi mới tới được địa phận Lâm Truy, Huyền Thúy nói:
Bá Đương cũng nói:
Hùng Tín lưu luyến không nỡ rời tay, bèn bàn:
Bá Đương, Huyền Thúy tán đồng:
Cả ba giật dây cương lao ngựa về phía trước, Hùng Tín đưa tay chỉ:
Bá Đương, Huyền Thúy bằng lòng:
Cả ba nhìn xem, chỉ thấy:
Bãi dàn lưng núi
Lầu tiếp chân mây
Cây biếc um tùm, văng vẳng đâu nghe cọp thét
Liễu xanh mườn mượt, chập chờn thoáng thấy oanh bay
Phải chăng là:
Chèo bẻo đậu hè xúm xít
Kinh nghệ nhảy hề loay quay
Dưới chân Bảo Sơn có khoảng ba bốn chục nóc nhà trong đó có một quán rượu, lá cờ hiệu treo phấp phới trên cây ngay trước cửa. Cả ba xuống ngựa, vào trong quán, thì đã thấy ba con ngựa trong sân của khách đã buộc trước rồi, đang đứng nhai cỏ trong máng. Tiểu nhị vội ra mời khách vào gian phòng tranh chính giữa, rửa mặt, rửa tay.
Hùng Tín hỏi tiểu nhị:
Tiểu nhị giơ tay chỉ:
Hùng Tín đang định chào hỏi, thì thấy cửa sổ của gian bên trái ló ra một cái đầu, nhìn ngang ngửa. Bá Đương trông thấy liền cười xòa:
Lý Như Khuê vội vã:
Tề Quốc Viễn cùng mọi người ra, bái chào xong xuôi. Bá Đương hỏi:
Như Khuê đáp:
Rồi chạy vào trước cửa phòng lớn tiếng:
Dứt lời thì thấy một người đàn ông cao lớn, đàng hoàng bước ra.
Như Khuê giới thiệu:
Hùng Tín đáp lời:
Hùng Tín sai bày tiệc rượu, rồi cả sáu người ngồi vào hàn huyên. Bá Đương nói với Như Khuê, Quốc Viễn:
Như Khuê đáp:
Huyền Thúy đáp:
Quốc Viễn hỏi:
Hùng Tín đáp:
Thấy tiệc đã dọn xong, Hùng Tín tiếp:
Mọi người ngồi vào bàn, uống rượu dăm chén, Như Khuê lại hỏi:
Bá Đương ngừng chén, đem chuyện hào kiệt chuẩn bị lễ mừng như thế nào, đi Tế Châu ra sao, ở hàng Nhuận Phủ như thế nào, Giảo Kim tự nhận, Thúc Bảo đốt trát, kể ra một lượt. Quốc Viễn khoái quá vỗ tay tán thưởng, dậm chân, đập bàn mà hét. Như Khuê nói:
Bá Đương lại kể tiếp chuyện Huyền Thúy đến gặp Lai Tổng quản, Tự Xương đến gặp Lưu Thứ sử, rồi chuyện ba nghìn lạng bạc của Đường Công tặng Thúc Bảo thế nào kể hết một lượt. Kể xong, chỉ thấy Đậu Kiến Đức đập bàn than:
Như Khuê nói thêm:
Huyền Thúy lại hỏi:
Đậu Kiến Đức đáp:
Hùng Tín nói:
Lại quay lại nói với Huyền Thúy, Bá Đương:
Bá Đương, Huyền Thúy không tiện chối từ, nên cũng đành theo Hùng Tín và mọi người về Nhị Hiền trang. Quốc Viễn mừng rỡ nói:
Như Khuê nói:
Ăn xong, Hùng Tín gọi tiểu nhị trả tiền, không quên cả suất cơm rượu mà ba người bạn mới đã ăn từ trước.
Mọi người ra khỏi quán rượu, nhảy lên ngựa, ra roi phóng thẳng, đi được mấy dặm, thấy quanh vách núi ven đường, có một ông già, nằm co, gối đầu lên tay mà ngủ, vứt cả khăn gói bên cạnh. Kiến Đức trông thấy, có vẻ giống người đầy tớ già Đậu Thành của mình, bèn nhảy xuống ngựa, lại gần nhìn kỹ, thì đúng là Đậu Thành. Kiến Đức vừa ngạc nhiên, vừa sợ hãi, gọi lớn:
Ông già tỉnh dậy chùi mắt nhìn, nhận ra chủ nhân, bèn thưa:
Lúc này cả năm người đều đã xuống ngựa, đứng cạnh đường. Kiến Đức cầm tay Hùng Tín mà rằng:
Ơn nhị ca thương đến, không bỏ kẻ hoạn nạn này, đáng phải theo các vị đây về bái chào ở Nhị Hiền trang mới phải. Nhưng tiểu đệ bây giờ, lòng như tơ vò phải trở về ngay, xem chuyện tiểu thư ra sao. Sau này có dịp, sẽ xin đến hầu nhị ca.
Vừa mới quen nhau, đã lại nói xa. Núi xưa có thiêng sao vẫn lặng lẽ nhìn?
Hùng Tín tiếp:
Quốc Viễn tán thưởng:
Bá Đương thêm vào:
Hùng Tín lại nói với Bá Đương, Huyền Thúy:
Rồi bảo bọn đầy tớ:
Bọn đầy tớ vội mở khăn gói đưa trình Hùng Tín xem còn ít nhiều ra sao, rồi chia đôi cho Bá Đương:
Mọi người bằng lòng. Kiến Đức cảm tạ Hùng Tín. Như Khuê, Quốc Viễn, rồi cùng Bá Đương, Huyền Thúy lên ngựa đi trước.
Chính là:
Vui bạn bè thắm thiết
Lo cốt nhục hằn thù
Cũng bởi câu nghĩa khí
Khác thói đời phù du.
Hùng Tín thấy ba người đã đi khuất, nói với Như Khuê, Quốc Viễn:
Như Khuê đáp:
Hùng Tín thấy nói thế, cũng không muốn nài thêm bèn chia tay, quay ngựa về Lộ Châu.
Quốc Viễn trên lưng ngựa nói với Như Khuê:
Như Khuê đáp:
Hai người trên ngựa chuyện trò, đi cả ngày lẫn đêm về sơn trại, lo liệu công việc xong xuôi rồi cùng với ba tên lâu la, tìm đường tắt đi về Giới Hưu.
° ° °
Nguyên là Đậu tiểu thư thấy sự thể không ổn, sau khi Đậu Thành ra đi được ba ngày, tự mình cũng cải dạng nam trang, cùng với mẹ con bác gái, trốn khỏi Giới Hưu. May sao giữa đường gặp được phụ thân. Kiến Đức mừng rỡ. Bá Đương cùng Huyền Thúy đều khuyên Kiến Đức đưa tất cả về Nhị Hiến trang.
Lại nói Như Khuê, Quốc Viễn vừa tới Giới Hưu, lượn quanh ở ngoài cửa thành tìm chỗ nghỉ. Ngày hôm sau vào thành nghe ngóng, chẳng thấy cả Bá Đương lẫn Huyền Thúy đâu cả, cũng chẳng biết Trương Thiện Sĩ ở chỗ nào, chạy đông lại chạy tây nghe trong ngõ ngoài phố, người người thì thầm bàn tán, đều nói chuyện một nhà nào đó, đã mất đến hàng nghìn lạng hạc, nhà khác mất trăm lạng, tới nhà họ Hạ ở Hà Tây, chỉ toàn con gái, mất cả gia cơ điền sản, mới được năm trăm lạng vàng. mà bọn hoạn quan vẫn không chịu nhận cho, tên con gái vẫn phải ghi trong sổ tiến cung mà thôi! Hai người đi vào một ngõ hẻm, sẵn đang mệt mỏi, liền vào một quán rượu ngồi nghỉ. Thấy có hai người đầy tớ già, cũng vào quán ngồi, gõ mặt bàn ra hiệu đòi rượu, miệng thì kể:
Người kia tiếp:
Như Khuê hỏi:
Một ông già đáp:
Như Khuê thấy nói thế, cúi đầu nghĩ ngợi, rồi kéo Quốc Viễn dậy, trả tiền rượu, ra khỏi quán về ngoài thành gọi lâu la thu lượm hành lý lên đường ngay. Quốc Viễn hỏi:
Như Khuê đáp:
Rồi ghé tai Quốc Viễn khẽ nói:
Nay hiền đệ mang theo mấy tên lâu la này, theo đường nhỏ phía tây núi mà xuyên qua huyện Ninh Hương, đến vùng Thạch Lâu có một khu gọi là Thanh Hư các, bọn chúng nhất định nghỉ ngơi ở đấy. Hiền đệ cứ theo dõi cho sát đừng để lộ mình. Tiểu đệ ngày đêm vào ngay sơn trại tuyển mấy lâu la được việc, đem theo một ít đồ đạc cần thiết tới Thạch Lâu, cách Thanh Hư khoảng mười dặm gặp hiền đệ rồi sẽ khởi sự.
Nói xong tất cả đều lên ngựa, đến ngã ba trước mặt mỗi người mỗi đường.
Chính là:
Chưa bằng Gia Cát mưu thần
Cũng đáng Long Trung mẹo thánh. 2
° ° °
Lại nói khâm sai chánh sứ Hứa Đình Phụ rời khỏi Giới Hưu, binh lính cờ gióng trống đánh đến châu Vĩnh Ninh. Họ Hứa ngồi xe bịt kín, có mười mấy thổ binh theo hầu, lại thêm mười tên quan binh đi theo bảo vệ, trên đường đi rất chậm, đã hai ngày trên đường, sang tới giờ tý ngày hôm nay vẫn còn cách địa giới Vĩnh Ninh năm mươi dặm, cách Thanh Hư các ba mươi dặm, nhìn chung quanh chỉ thấy:
Gió lồng dậy đất
Mây kéo đen trời
Núi rừng đá lở, ầm ĩ cọp thét rồng ngâm
Cây đổ cát bay, nhôn nháo vượn kêu thỏ chạy
Hốt hoảng hát bài "Hành lộ nan "
Đành để gió Thạch Vưu 3múa nhảy.
Một khách đi đường, gặp phải trận cuồng phong bạo vũ này, khắp người ướt sạch, rét lạnh thấu xương, chạy vào Thanh Hư các trú nhờ, nhưng vì cửa đóng, không tài nào vào được. Nguyên do là Thanh Hư các này có tới ba tầng cửa. Phía trên cùng là ba gian các nhỏ, ngoài là ba gian hiên rộng. Sau nữa là một nhà sư già ở trong một nhà nhỏ riêng để trông coi. Lúc này sứ giả của nhà vua đang nghỉ ngơi trên các, còn bọn người tùy tùng thì vừa cởi quần áo ướt, đang đốt lửa sưởi. Trong sân mấy chiếc xe nhỏ, lính tráng của châu xúm quanh, bưng thịt lợn quay, thịt dê nướng, gà, ngỗng, các món nấu khác bánh bao các loại, bày ra mười mấy mâm. Mâm sang nhất được dành riêng cho chánh sứ khâm sai. Các vò rượu lớn cũng được bày cạnh mỗi mâm. Một viên quan tay cầm tờ thiếp, thưa với bọn lính trong đội tùy tùng:
Bọn này nghe ra, cửa mở ngay, dẫn viên dịch thừa lên gặp quan khâm sai. Dịch thừa quỳ xuống trình:
Rồi nâng lễ vật lên trình quan xem xét. Hứa Đình Phủ lên tiếng:
Lại hỏi:
Dịch thừa thưa:
Rồi sai tay chân bưng các thứ đặt lên bàn, khiêng lại gần giường nằm của quan lớn Khâm sai, Đình Phủ lại truyền:
Mọi người nghe quan lớn truyền, liền xuống các, thấy hai tiểu nội giám đứng hầu sau quan lớn, dịch thừa thưa:
Hai tên nội giám nghe thấy thế cũng theo xuống.
Đang ăn uống say sưa, bỗng thấy một người cao lớn bưng một bình rượu đã được hâm nóng, đưa mắt ra hiệu, dịch thừa cầm lấy bình rượu rót ra một chén đầy, bưng lên các, quỳ trước mặt Hứa Đình Phủ thưa:
Đình Phủ khen:
Dịch thừa cúi thưa:
Đang thưa trình, thì đã thấy Đình Phủ dốc cạn chén rượu lớn, rồi lắc lư, lắc lư ngã lăn quay ra. Thì ra viên dịch thừa chính là Như Khuê giả trang, Quốc Viễn thì cai quản bọn thủ hạ ở bên dưới, chờ đúng lúc trên các Như Khuê hành sự, dưới này Quốc Viễn cũng dốc rượu trong bình nóng, mỗi một tên lính trong đội bảo vệ cùng hai nội giám, mỗi đứa một chén, cả bọn cùng ngã lăn. Như Khuê gọi bọn lâu la, khiêng Đình Phủ xuống các, cùng với hai nội giám vào một chỗ, rồi trói Đình Phủ vào trong kiệu, hai nội giám thì chất lên lưng ngựa, các thứ khác không thèm đụng đến, cả bọn lên ngựa, đang đêm kéo về sơn trại.
Hứa Đình Phủ ở trong kiệu, bị thuốc mê mãi tới gần sáng mới tỉnh lại, thấy hai tay bị trói chặt, thân mình cũng bị quấn bằng dây lớn với kiệu, không thể nào cựa quậy gì được, sợ quá, vội la lớn không thành tiếng:
Nhưng bây giờ đã vào giữa rừng núi, dù quan lớn có la hét thế nào nữa, cũng chẳng thấy ai nhòm ngó. Phương đông bắt đầu rạng, mọi người vén rèm, khiêng Đình Phủ ra. Đình Phủ nhìn quanh, thì thấy hai viên tiểu nội giám theo mình, cũng còn bị trói, đang đứng bên cạnh. Cả ba nhìn nhau mặt sắt lại, nhưng cũng không dám nói với nhau một lời nào.
Chỉ nghe ba tiếng pháo lớn, thấy khoảng ba bốn chục lâu la, kéo Đình Phủ cùng hai viên tiểu nội giám tiến vào sơn trại. Nhìn lên thấy thương đao san sát, sát khí đằng đằng, chính giữa ba gian thảo đường, bày hai ghế dựa trên có trải da hổ. Như Khuê đã vứt bỏ bộ quần áo quan viên, mà mặc một bộ đồ chiến bào màu hồng, ngồi chễm chệ bên trên.
Đình Phủ ngước mắt nhìn lên, nhận ra viên dịch thừa ngày hôm qua, hồn bay phách lạc, Đình Phủ quỳ lạy xuống.
Như Khuê lớn tiếng quát:
Đình Phủ thưa:
Như Khuê nạt lớn:
Đình Phủ nghe tiếng khóc lóc thảm thiết, van xin tha chết. Lại thấy lâu la vào trình:
Thì ra Quốc Viễn sau khi giải Đình Phủ về trại, sợ bọn lính tỉnh dậy truy tìm, nên cầm đầu một toán lâu la, mai phục giữa đường rất lâu không thấy gì mới rút cả về sơn trại, thấy các bác quan viên đang quỳ mọp dưới thềm liền lên tiếng:
Như Khuê cười đáp:
Rồi hai người cúi xuống cởi trói cho cả ba, lại đưa vào thảo đường mời ngồi cẩn thận, rồi Như Khuê làm ra vẻ hối hận.
Sai lâu la:
Bọn lâu la rối rít bày tiệc rượu, ba người cùng ngồi vào bàn. Đình Phủ lên tiếng:
Như Khuê đáp:
Đình Phủ đáp:
Quốc Viễn nghe thế, mắt long sòng sọc nạt lớn:
Nói xong, rút ngay bên hông một thanh bảo kiếm sáng loáng, vứt lên mặt bàn. Như Khuê tiếp lời:
Đình Phủ đứng dậy, cùng với hai viên nội giám ra phía thềm bán nguyệt đài. Trong số hai nội giám, thì một tên nước mắt ngắn dài, một lời cũng không thốt ra được, một tên còn có gan hơn ít nhiều thì bàn:
Đình Phủ nghe những lời này, nhìn lại hai tên tay chân một lần nữa, rồi nói:
Nói rồi lại quay vào. Như Khuê sai lâu la dọn cơm rượu cho viên nội giám có gan hơn ăn, lại sai lấy một đỉnh bạc thưởng cho làm tiền lộ phí, rồi hỏi:
Viên nội giám thưa:
Như Khuê tiếp:
Rồi sai thủ hạ đem con ngựa mà y đã bị buộc ở trên lưng để đến sơn trại để y cưỡi về, cho hai lâu la đưa xuống núi. Còn Đình Phủ cùng tên kia đem giam vào một phòng kín. Đưa rượu ngon, thịt béo vào tận nơi.
° ° °
Lại nói nội giám Chu Đồng, cưỡi ngựa về đến Thanh Hư các, thì thấy các cửa khóa kín, không một bóng người, đành phải tìm đường về tận châu lỵ.
Bọn quan nha nghe báo có chuyện cường đạo bắt mất chánh sứ khâm sai, thì vô cùng hoảng hốt, liền phi ngựa như bay đến Thanh Hư các khám xét hiện trường. Bắt từ nhà sư, thổ binh, cùng đội lính bảo vệ phủ đường. Đưa công văn đi Phần Châu, quan chủ Phần Châu vội vàng không kể ngày đêm đến Vĩnh Ninh. Lúc này quan nha Vĩnh Ninh đang xét hỏi nhà sư, thổ binh, đội lính bảo vệ, cùng các nhân chứng ở địa phương Thanh Hư các, thì thấy Chu Đồng trở về. Tất cả bọn quan lại đều xúm lại hỏi tình hình. Nội giám Chu Đồng bèn đem chuyện ở Đào Hoa Sơn đầu đuôi thế nào kể hết một lượt. Quan nha nghe xong, ai nấy mặt mày xám như bùn, ngây như tượng gỗ, cho nhà sư cùng bọn nhân chứng về, tất cả ngồi bàn kế sách đối phó. Có kẻ bàn rằng:
Lại có kẻ cãi:
Kẻ khác lại giảng giải:
Phần Châu Thứ sử nói:
Thế là mọi người cứ theo các kho mà chia lấy hai nghìn lạng vàng, cho người đi cùng với Chu Đồng, mang tới Đào Hoa Sơn. Lý Như Khuê, Tề Quốc Viễn nhất định không chịu. Hứa Đình Phủ đành phải xuất của mình ra ba nghìn lạng nữa, ba bốn lần van xin, Lý, Tề mới cho xuống núi. Từ đó Hứa Đình Phủ hễ xuống châu quận nào, đều phải lo trước việc nai nịt gọn gàng, tiền hô hậu ủng. Nhưng rồi vẫn cố kiếm thêm nhiều vàng bạc, bằng muôn phương nghìn kế. Thế cũng mới thấy bọn cường đạo ở trên đời này, mà có được nghĩa khí như vậy cũng không phải không có.
Ai rằng núi rừng mới có hùm beo
Ở đây vườn ruộng rất nhiều sói lang.